Hôm nay,  

Chiến Tranh Việt Minh-pháp?

29/04/201809:07:00(Xem: 6609)

CHIẾN TRANH VIỆT MINH-PHÁP?

 
Trần Gia Phụng

 

Sau khi sách Chiến tranh 1946-1954, từ chiến tranh Việt Minh-Pháp đến chiến tranh ý thức hệ Quốc-Cộng được nhà xuất bản Tự Lực phát hành tại California vào tháng 3-2018 và quảng cáo trên Internet, có độc giả ở xa e-mail hỏi người viết tại sao lại gọi chiến tranh 1946-1954 là chiến tranh Việt Minh-Pháp? 

 

Lý do câu hỏi nầy có thể vì trước đây, người ta thường quen gọi chiến tranh 1946-1954 là “Chiến tranh Việt-Pháp”, hay là “Cuộc kháng chiến chống Pháp”.  Nếu gọi như thế, có nghĩa là xem cuộc chiến nầy xảy ra giữa toàn dân Việt với người Pháp.  Trong thực tế, chiến tranh xảy ra tối 19-12-1946 không phải giữa toàn dân Việt với người Pháp, mà là giữa mặt trận Việt Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) với người Pháp.  Việt Minh và đảng CSĐD chỉ là một thành phần nhỏ trong toàn dân Việt mà thôi, nên không thể gọi là chiến tranh Việt-Pháp.  Lý do chiến tranh chứng thực điều nầy.

 

1.-  LÝ DO CHIẾN TRANH

 

Tháng 8-1945, Việt Minh và đảng CSĐD cướp chính quyền, thành lập nhà nước cộng sản đầu tiên ở Á Châu là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH).  Khi làm lễ ra mắt ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh hô hào cương quyết chống Pháp đến cùng, nguyên văn như sau: “Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Thông Tấn, 2005, tr. 26.) 

 

Tuy nhiên, khi quân Pháp nhờ quân Anh giúp sức, tái chiếm Nam kỳ, và thỏa thuận với người Trung Hoa tiến quân ra Bắc kỳ, Hồ Chí Minh cùng Việt Minh và đảng CSĐD không chống Pháp, mà thỏa hiệp với Pháp, ký liên tiếp hai hiệp ước ngày 6-3-1946 tại Hà Nội (Hiệp định Sơ bộ), và ngày 14-9-1946 tại Paris (Pháp) (Tạm ước tức Modus Vivendi), hợp thức hóa sự hiện diện người Pháp tại Việt Nam.  Hành động nầy hoàn toàn trái với lời Hồ Chí Minh thề ngày 2-9-1945.

 

Quân đội Pháp càng ngày càng gia tăng áp lực, uy hiếp Việt Minh.  Sáng 18-12-1946, tại Hà Nội, một chiếc xe của Pháp bị tự vệ Việt Minh tấn công trước trụ sở bộ Tài chính và bộ Giao thông.  Pháp gởi cho Việt Minh một thư báo tin Pháp sẽ chiếm trụ sở hai bộ đó, và yêu cầu Việt Minh dẹp bỏ những chướng ngại vật trong thành phố; nếu không Pháp sẽ tự mình khai thông đường sá.  Việt Minh xem đây là tối hậu thư thứ nhứt. (Stein Tonnesson, Vietnam 1946 – How the War Began, University of California Press, 2010, tr. 198.)

 

Cùng ngày 18-12-1946, thiếu tá Pháp Jean Julien gởi cho Việt Minh một thư khác, phàn nàn rằng cảnh sát Việt Minh không chu toàn nhiệm vu, và cho biết nếu việc nầy tiếp tục, Pháp sẽ đảm trách giữ gìn an ninh Hà Nội từ ngày 20-12-1946. Việt Minh xem đây là tối hậu thư thứ hai. (Stein Tonnesson, sđd. tr. 198.)

 

Cũng trong ngày 18-12-1946, Hoàng Hữu Nam tức Phan Bôi, thứ trưởng bộ Nội vụ Việt Minh, họp công chức Hà Nội, ra lệnh tản cư khỏi thủ đô. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, 1945-1964, Sài Gòn 1965, California: Nxb. Xuân Thu tái bản không đề năm, tr. 30.)  Dân chúng phải tản cư toàn diện.  Dân quân du kích đến từng nhà, gõ cửa kiểm soát hằng ngày, thúc giục dân chúng phải di tản. (Vân Dung Nguyên, Du lotus au sapin, Québec: Les Éditions GID, 2016, tt. 60-61.)

 

Sáng 19-12-1946, tướng Louis Morlière, tư lệnh lực lượng Pháp ở Bắc kỳ, gởi thư cho Hoàng Hữu Nam, buộc Việt Minh tước khí giới quân Tự vệ ở Hà Nội, chấm dứt bạo động, đình chỉ việc chuẩn bị chiến tranh và để cho Pháp bảo vệ an ninh thành phố Hà Nội.  Đồng thời, Morlière còn đề nghị với Hoàng Hữu Nam triệu tập cuộc họp khẩn cấp để tìm biện pháp tránh xung đột.  Việt Minh cho đây là tối hậu thư thứ ba. (Stein Tonnesson, sđd. tr. 204.) 

 

Nếu quân đội Pháp nắm giữ an ninh Hà Nội, nghĩa là kiểm soát luôn lực lượng võ trang Việt Minh, thì sinh mệnh của chính phủ Hồ Chí Minh, các lãnh đạo Việt Minh, các lãnh đạo đảng CSĐD hoàn toàn nằm trong tay quân đội Pháp.  Việt Minh không thể chấp nhận điều nầy.  Vì vậy, một mặt Việt Minh chuẩn bị chiến tranh, một mặt Hồ Chí Minh họp Trung ương đảng CSĐD lấy quyết định.

 

Để Pháp khỏi nghi ngờ về những chuẩn bị của Việt Minh, Hoàng Hữu Nam trả lời rằng vấn đề sẽ được cứu xét trong phiên họp hằng tuần vào ngày hôm sau, thứ Sáu 20-12-1946.  Hồ Chí Minh viết thư ngắn cho đại diện Pháp là Jean Sainteny yêu cầu Sainteny thương thuyết với Hoàng Minh Giám, thứ trưởng Ngoại giao Việt Minh.  Sainteny hẹn gặp Giám cũng vào ngày hôm sau là thứ Sáu 20-12-1946.  Võ Nguyên Giáp còn cố gắng thuyết phục tư lệnh quân Pháp ở Bắc kỳ là Louis Morlière rằng để làm cho tình hình bớt căng thẳng, quân Pháp phải tỏ thiện chí bằng cách bỏ lệnh cấm trại, cho lính nghỉ ngơi. 

 

Morlière đồng ý.  Tuy nhiên, lúc 5 giờ chiều ngày 19-12, Louis Morlière nhận được tin tình báo cho biết Việt Minh sẽ tấn công tối hôm đó.  Morlière liền đổi kế hoạch, ra lệnh duy trì lệnh cấm trại, không cho quân Pháp ra khỏi căn cứ, tập trung thường dân Pháp vào những khu vực gần căn cứ Pháp để dễ bảo vệ, và chuẩn bị đối phó với tình hình. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua 1945-1964, California: Xuân Thu tái bản không đề năm, tr. 30.)  

 

Trong lúc đó, Hồ Chí Minh triệu tập Trung ương đảng CSĐD họp trong hai ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông.  Đảng CSĐD đã được Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán ngày 11-11-1945 và thay bằng Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Mác-xít] do Trường Chinh Đặng Xuân Khu làm tổng thư ký.  Tuy nhiên, theo lời Hồ Chí Minh “dù là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn lãnh đạo chính nghĩa và nhân dân.” (Hồ Chí Minh toàn tập [tập 6], xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 161.)

 

Không thể để bị Pháp bắt, và cũng không thể âm thầm bỏ trốn khỏi Hà Nội một cách nhục nhã, Trung ương đảng CSĐD quyết định tấn công Pháp, dùng chiêu bài toàn quốc kháng chiến chống Pháp, bảo vệ độc lập, để giới lãnh đạo Việt Minh và đảng CSĐD có cơ hội thoát thân một cách hợp lý khỏi Hà Nội mà không bị dân chúng chê trách.  Vì vậy, Trung ương đảng CSĐD quyết định phát động cuộc chiến chống Pháp trên toàn quốc.

 

Khi kiếm cách nghị hòa với Pháp, Việt Minh giao cho ban Thường trực Quốc hội gởi điện văn ngày 30-11-1946, yêu cầu Quốc hội Pháp can thiệp để dàn xếp cuộc xung đột Việt Pháp.  Trái lại, khi quyết định phát động chiến tranh với Pháp, Hồ Chí Minh không hỏi ý kiến Quốc hội, trên danh nghĩa là cơ quan quyền lực tối cao của người Việt lúc đó, hay ban Thường trực Quốc hội, đại diện cho Quốc hội, gồm những người luôn luôn có mặt tại Hà Nội, mà chỉ hỏi ý kiến Trung ương đảng CSĐD.

 

Tuy hiến pháp ngày 9-11-1946 bị bãi bỏ ngày 14-11-1946 tức năm ngày sau khi được quốc hội thông qua, và hiến pháp nầy không được ban hành, nhưng lúc đó ban Thường trực Quốc hội đã được bầu lên và có mặt thường xuyên ở Hà Nội.  Ban Thường trực có nhiệm vụ liên lạc với chính phủ để góp ý và phê bình, quy định việc thi hành hiến pháp, liên lạc với đại biểu quốc hội khi cần thiết, cùng với chính phủ quyết định tuyên chiến, đình chiến hay ký hiệp ước.

 

Hồ Chí Minh không tham khảo ý kiến ban Thường trực Quốc hội, mà Hồ Chi Minh chỉ hội ý riêng với Trung ương đảng CSĐD, rồi quyết định tấn công Pháp.  Điều nầy có nghĩa là không phải Quốc hội Việt Nam hay ban Thường trực Quốc hội Việt Nam, tức không phải là đại biểu nhân dân Việt Nam quyết định chiến tranh với Pháp, mà Hồ Chí Minh cùng với Trung ương đảng CSĐD tự ý quyết định tấn công Pháp tối 19-12-1946.

 

Cần chú ý là khi quân Pháp nhờ người Anh giúp đỡ tái chiếm Nam kỳ từ tháng 9-1945, rồi lại đưa quân ra Trung và Bắc kỳ, tổ quốc Việt Nam đã thực sư lâm nguy từ lúc đó.  Dầu vậy, Việt Minh không kêu gọi toàn dân chống Pháp, mà Việt Minh kiếm cách thương thuyết với Pháp để tồn tại, duy trì quyền bính.  Nay không còn thương thuyết với Pháp được nữa, hết cách thỏa thuận với Pháp, Việt Minh mới quyết định đánh Pháp, là vì Việt Minh lâm nguy chứ không phải là tổ quốc lâm nguy. 

 

Như thế rõ ràng đây là chiến tranh giữa Việt Minh với Pháp, nhưng ngày hôm sau, 20-12-1946, trên đài Phát thanh Bạch Mai, Hồ Chí Minh đưa ra chiêu bài độc lập dân tộc, kêu gọi toàn dân kháng chiến chống Pháp, đổ gánh nặng chiến tranh lên vai dân tộc Việt Nam. Do chiêu bài nầy mà nhiều người đứng lên đáp lời sông núi, lên đường theo Việt Minh chống Pháp.

 

2.-  THÀNH PHẦN TOÀN DÂN

 

Dựa vào lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, các sách lịch sử do cộng sản xuất bản, gọi cuộc chiến tranh bùng nổ tối 19-12-1946 giữa Việt Minh với Pháp là cuộc chiến chống Pháp của toàn dân Việt Nam.  Vậy toàn dân lúc đó là những ai và thái độ chính trị như thế nào?

 

Trước đây, xã hội Việt Nam được chia thành bốn hạng “sĩ nông công thương”.  Qua thời Pháp thuộc, sự phân hạng trên không còn thích hợp, vì trong xã hội mới, văn hóa thay đổi, chính trị thay đổi, kinh tế thay đổi, quan hệ sản xuất thay đổi.  Vì vậy, tốt hơn ở đây xin dựa vào nơi sinh sống, để chia toàn dân thành dân thành thị và dân nông thôn, dân miền núi.

 

THÀNH THỊ

 

Về chính tri, dân thành thị thời đó gồm bốn nhóm: Đầu tiên là giới quan lại triều đình, công chức thời Pháp thuộc và công chức thời chính phủ Trần Trọng Kim.  Có người bị Việt Minh gọi là “Việt gian”, “tay sai thực dân Pháp”.  Nhóm nầy tản cư để tránh lửa đạn

 

Nhóm thứ hai gồm những người không có lập trường chính trị rõ ràng, không thân và cũng không chống bên nào, chỉ muốn yên ổn làm ăn sinh sống.  Khi chiến tranh xảy ra, họ tản cư về các vùng nông thôn bình yên, tránh chiến tranh.

 

Khi Pháp đẩy lui Việt Minh, thì hai nhóm nầy quay về thành thị, tiếp tục làm ăn sinh sống dưới quyền của người Pháp như trước đây, không chú ý đến chuyện chính trị.  Như vậy, hai nhóm trên không tham gia cuộc chiến Việt Minh-Pháp.

 

Nhóm thứ ba ở thành thị là nhóm trí thức tiểu tư sản, có tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm, đứng lên đáp lời sông núi, tham gia kháng chiếng chống Pháp, không nghi ngờ và không hay biết âm mưu và thủ đoạn của Việt Minh và đảng CSĐD.  Nhóm nầy bị Việt Minh cộng sản thanh lọc năm 1949 sau khi Việt Minh bắt đầu khá mạnh nhờ nhận viện trợ của Trung Cộng.

 

Nhóm thứ tư ở thành thị gồm những người có cảm tình và theo Việt Minh, hay đảng viên CSĐD.  Nhóm nầy tuy ít nhưng hăng hái, tích cực, chấp nhận gian khổ, tranh đấu vì lý tưởng chủ nghĩa cộng sản.

 

Khi trở lui Việt Nam, Pháp dùng chiến thuyền đổ quân vào các hải cảng, đánh chiếm trước các thành phố duyên hải.  Từ đó, Pháp mở rộng vùng kiểm soát.  Pháp để yên cho dân chúng sinh sống trong vùng Pháp chiếm đóng nếu không chống Pháp, không làm hại đến an ninh.  Vì vậy, sau khi Pháp ổn định các thành phố, thì nhiều người hồi cư về thành phố, tránh chiến tranh, nhứt là từ năm 1949, khi chính phủ Quốc Gia Việt Nam được thành lập và cũng là lúc Việt minh mở những cuôc thanh trừng nội bộ, loại bỏ những thành phần trí thức tiểu tư sản. 

 

Từ đó, thành phố càng ngày càng đông đúc.  Ví dụ điển hình, trước chiến tranh, Chợ Lớn có 500,000 dân.  Năm 1949, Chợ Lớn có 1,500,000  dân. (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 173.)

 

NÔNG THÔN VÀ MIỀN NÚI

 

Dân nông thôn chiếm đại đa số trong tổng dân số Việt Nam, gồm nhiều thành phần: chủ đất (dịa chủ), nông dân, tá điền (cày thuê), thợ thủ công (mộc, nề, dệt, gốm…), buôn bán nhỏ, làm công (giúp việc).  Nông thôn ít trường học, có vùng không có trường học, nhứt là miền núi, nên trình độ văn hóa trung bình thấp, nhiều người mù chữ, dễ bị tuyên truyền, dụ dỗ.   Đất đai là tài sản của dân nông thôn, không di dời được, nên dân chúng phải bám đất mà sống, ở yên tại chỗ, dù không theo cộng sản cũng bị cộng sản khống chế, nên phải tuân theo lệnh của cộng sản để sống.

 

Nông thôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống: 1) Về kinh tế, nông thôn cung cấp lúa gạo, thực phẩm cho thành phố, kể cả cung cấp thực phẩm nuôi quân và cán bộ Việt Minh.  2) Về quân sự, Việt Minh dùng nông thôn và vùng rừng núi làm hậu cứ, lập hầm bí mật để trốn tranh.  Việt Minh ngụy trang thành nông dân, trà thộn ở nông thôn.  Nông dân là nguồn nhân lực cung cấp lính cho Việt Minh.  Nhờ đi lại với thành phố, nông dân còn cung cấp tin tức tình báo và quân sự cho Việt Minh.  Việt Minh kiểm soát chặt chẽ dân cư nông thôn, đoàn ngũ hóa dân chúng, huấn luyện dân quân, thi hành kế hoạch của Trung Cộng: Lấy nông thôn bao vây thành thị.

 

Quân đội Liên Hiệp Pháp không thể kiểm soát tất cả nông thôn khắp nước, mà chỉ đóng quân trong các căn cứ, ở các thị trấn, rồi mở những cuộc hành quân tảo thanh Việt Minh.  Quân Liên Hiệp Pháp (Pháp, Bắc Phi) khác chủng tộc, khác ngoại hình, dễ bị nhận biết, nên hành quân đến đâu, dân chúng biết ngay.  Dân chúng bắt buộc phải báo tin cho Việt Minh vì nếu không sẽ bị Việt Minh trừng trị ngay.  Khi quân Liên Hiệp Pháp rút về căn cứ, Việt Minh trở lại hoạt động, nhứt là ban đêm.  Việt Minh tổ chức kiểm điểm và xét xử.  Những ai bị tố cáo là “Việt gian”, tiếp tay cho Pháp, sẽ bị tử hình.  Nhờ khủng bố một cách sự tàn ác, Việt Minh khống chế được dân nông thôn theo lệnh của Việt Minh.

 

KẾT LUẬN

 

Như thế, hai yếu tố trên đây (nguyên nhân chiến tranh và thành phần dân chún đủ cho thấy chiến tranh 1946-1954 là cuộc chiến giữa Việt Minh cộng sản với Pháp, chứ không phải giữa toàn dân Việt Nam với Pháp.  Đó là vì Việt Minh bị Pháp dồn vào thế cùng, nên Việt Minh đánh Pháp để trốn chạy khỏi Hà Nội.  Không phải toàn dân chống Pháp, vì phần lớn dân chúng tìm đến vùng an ninh, nhứt là các thành phố đề sinh sống.  Dân chúng nông thôn không chạy được, phải bám đất để cày bừa, dầu không theo Việt Minh vẫn bị Việt Minh kềm kẹp, kiểm soát chặt chẽ.

 

Vì vậy, không thể gọi chiến tranh 1946-1954 là chiến tranh Việt-Pháp, mà nên gọi cho đúng sự thật là CHIẾN TRANH GIỮA VIỆT MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG VỚI PHÁP.  Lúc đầu Việt Minh thua chạy.  Đến năm 1949, Trung Cộng thành công ở Trung Hoa. Trung Cộng bắt đầu viện trợ dồi dào cho Việt Minh, làm thay đổi cuộc diện chiến tranh …

 

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 29-04-2018)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.