Hôm nay,  

Chiến Tranh Việt Minh-pháp?

29/04/201809:07:00(Xem: 6612)

CHIẾN TRANH VIỆT MINH-PHÁP?

 
Trần Gia Phụng

 

Sau khi sách Chiến tranh 1946-1954, từ chiến tranh Việt Minh-Pháp đến chiến tranh ý thức hệ Quốc-Cộng được nhà xuất bản Tự Lực phát hành tại California vào tháng 3-2018 và quảng cáo trên Internet, có độc giả ở xa e-mail hỏi người viết tại sao lại gọi chiến tranh 1946-1954 là chiến tranh Việt Minh-Pháp? 

 

Lý do câu hỏi nầy có thể vì trước đây, người ta thường quen gọi chiến tranh 1946-1954 là “Chiến tranh Việt-Pháp”, hay là “Cuộc kháng chiến chống Pháp”.  Nếu gọi như thế, có nghĩa là xem cuộc chiến nầy xảy ra giữa toàn dân Việt với người Pháp.  Trong thực tế, chiến tranh xảy ra tối 19-12-1946 không phải giữa toàn dân Việt với người Pháp, mà là giữa mặt trận Việt Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) với người Pháp.  Việt Minh và đảng CSĐD chỉ là một thành phần nhỏ trong toàn dân Việt mà thôi, nên không thể gọi là chiến tranh Việt-Pháp.  Lý do chiến tranh chứng thực điều nầy.

 

1.-  LÝ DO CHIẾN TRANH

 

Tháng 8-1945, Việt Minh và đảng CSĐD cướp chính quyền, thành lập nhà nước cộng sản đầu tiên ở Á Châu là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH).  Khi làm lễ ra mắt ngày 2-9-1945 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh hô hào cương quyết chống Pháp đến cùng, nguyên văn như sau: “Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Thông Tấn, 2005, tr. 26.) 

 

Tuy nhiên, khi quân Pháp nhờ quân Anh giúp sức, tái chiếm Nam kỳ, và thỏa thuận với người Trung Hoa tiến quân ra Bắc kỳ, Hồ Chí Minh cùng Việt Minh và đảng CSĐD không chống Pháp, mà thỏa hiệp với Pháp, ký liên tiếp hai hiệp ước ngày 6-3-1946 tại Hà Nội (Hiệp định Sơ bộ), và ngày 14-9-1946 tại Paris (Pháp) (Tạm ước tức Modus Vivendi), hợp thức hóa sự hiện diện người Pháp tại Việt Nam.  Hành động nầy hoàn toàn trái với lời Hồ Chí Minh thề ngày 2-9-1945.

 

Quân đội Pháp càng ngày càng gia tăng áp lực, uy hiếp Việt Minh.  Sáng 18-12-1946, tại Hà Nội, một chiếc xe của Pháp bị tự vệ Việt Minh tấn công trước trụ sở bộ Tài chính và bộ Giao thông.  Pháp gởi cho Việt Minh một thư báo tin Pháp sẽ chiếm trụ sở hai bộ đó, và yêu cầu Việt Minh dẹp bỏ những chướng ngại vật trong thành phố; nếu không Pháp sẽ tự mình khai thông đường sá.  Việt Minh xem đây là tối hậu thư thứ nhứt. (Stein Tonnesson, Vietnam 1946 – How the War Began, University of California Press, 2010, tr. 198.)

 

Cùng ngày 18-12-1946, thiếu tá Pháp Jean Julien gởi cho Việt Minh một thư khác, phàn nàn rằng cảnh sát Việt Minh không chu toàn nhiệm vu, và cho biết nếu việc nầy tiếp tục, Pháp sẽ đảm trách giữ gìn an ninh Hà Nội từ ngày 20-12-1946. Việt Minh xem đây là tối hậu thư thứ hai. (Stein Tonnesson, sđd. tr. 198.)

 

Cũng trong ngày 18-12-1946, Hoàng Hữu Nam tức Phan Bôi, thứ trưởng bộ Nội vụ Việt Minh, họp công chức Hà Nội, ra lệnh tản cư khỏi thủ đô. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua, 1945-1964, Sài Gòn 1965, California: Nxb. Xuân Thu tái bản không đề năm, tr. 30.)  Dân chúng phải tản cư toàn diện.  Dân quân du kích đến từng nhà, gõ cửa kiểm soát hằng ngày, thúc giục dân chúng phải di tản. (Vân Dung Nguyên, Du lotus au sapin, Québec: Les Éditions GID, 2016, tt. 60-61.)

 

Sáng 19-12-1946, tướng Louis Morlière, tư lệnh lực lượng Pháp ở Bắc kỳ, gởi thư cho Hoàng Hữu Nam, buộc Việt Minh tước khí giới quân Tự vệ ở Hà Nội, chấm dứt bạo động, đình chỉ việc chuẩn bị chiến tranh và để cho Pháp bảo vệ an ninh thành phố Hà Nội.  Đồng thời, Morlière còn đề nghị với Hoàng Hữu Nam triệu tập cuộc họp khẩn cấp để tìm biện pháp tránh xung đột.  Việt Minh cho đây là tối hậu thư thứ ba. (Stein Tonnesson, sđd. tr. 204.) 

 

Nếu quân đội Pháp nắm giữ an ninh Hà Nội, nghĩa là kiểm soát luôn lực lượng võ trang Việt Minh, thì sinh mệnh của chính phủ Hồ Chí Minh, các lãnh đạo Việt Minh, các lãnh đạo đảng CSĐD hoàn toàn nằm trong tay quân đội Pháp.  Việt Minh không thể chấp nhận điều nầy.  Vì vậy, một mặt Việt Minh chuẩn bị chiến tranh, một mặt Hồ Chí Minh họp Trung ương đảng CSĐD lấy quyết định.

 

Để Pháp khỏi nghi ngờ về những chuẩn bị của Việt Minh, Hoàng Hữu Nam trả lời rằng vấn đề sẽ được cứu xét trong phiên họp hằng tuần vào ngày hôm sau, thứ Sáu 20-12-1946.  Hồ Chí Minh viết thư ngắn cho đại diện Pháp là Jean Sainteny yêu cầu Sainteny thương thuyết với Hoàng Minh Giám, thứ trưởng Ngoại giao Việt Minh.  Sainteny hẹn gặp Giám cũng vào ngày hôm sau là thứ Sáu 20-12-1946.  Võ Nguyên Giáp còn cố gắng thuyết phục tư lệnh quân Pháp ở Bắc kỳ là Louis Morlière rằng để làm cho tình hình bớt căng thẳng, quân Pháp phải tỏ thiện chí bằng cách bỏ lệnh cấm trại, cho lính nghỉ ngơi. 

 

Morlière đồng ý.  Tuy nhiên, lúc 5 giờ chiều ngày 19-12, Louis Morlière nhận được tin tình báo cho biết Việt Minh sẽ tấn công tối hôm đó.  Morlière liền đổi kế hoạch, ra lệnh duy trì lệnh cấm trại, không cho quân Pháp ra khỏi căn cứ, tập trung thường dân Pháp vào những khu vực gần căn cứ Pháp để dễ bảo vệ, và chuẩn bị đối phó với tình hình. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua 1945-1964, California: Xuân Thu tái bản không đề năm, tr. 30.)  

 

Trong lúc đó, Hồ Chí Minh triệu tập Trung ương đảng CSĐD họp trong hai ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông.  Đảng CSĐD đã được Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán ngày 11-11-1945 và thay bằng Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Mác-xít] do Trường Chinh Đặng Xuân Khu làm tổng thư ký.  Tuy nhiên, theo lời Hồ Chí Minh “dù là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn lãnh đạo chính nghĩa và nhân dân.” (Hồ Chí Minh toàn tập [tập 6], xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 161.)

 

Không thể để bị Pháp bắt, và cũng không thể âm thầm bỏ trốn khỏi Hà Nội một cách nhục nhã, Trung ương đảng CSĐD quyết định tấn công Pháp, dùng chiêu bài toàn quốc kháng chiến chống Pháp, bảo vệ độc lập, để giới lãnh đạo Việt Minh và đảng CSĐD có cơ hội thoát thân một cách hợp lý khỏi Hà Nội mà không bị dân chúng chê trách.  Vì vậy, Trung ương đảng CSĐD quyết định phát động cuộc chiến chống Pháp trên toàn quốc.

 

Khi kiếm cách nghị hòa với Pháp, Việt Minh giao cho ban Thường trực Quốc hội gởi điện văn ngày 30-11-1946, yêu cầu Quốc hội Pháp can thiệp để dàn xếp cuộc xung đột Việt Pháp.  Trái lại, khi quyết định phát động chiến tranh với Pháp, Hồ Chí Minh không hỏi ý kiến Quốc hội, trên danh nghĩa là cơ quan quyền lực tối cao của người Việt lúc đó, hay ban Thường trực Quốc hội, đại diện cho Quốc hội, gồm những người luôn luôn có mặt tại Hà Nội, mà chỉ hỏi ý kiến Trung ương đảng CSĐD.

 

Tuy hiến pháp ngày 9-11-1946 bị bãi bỏ ngày 14-11-1946 tức năm ngày sau khi được quốc hội thông qua, và hiến pháp nầy không được ban hành, nhưng lúc đó ban Thường trực Quốc hội đã được bầu lên và có mặt thường xuyên ở Hà Nội.  Ban Thường trực có nhiệm vụ liên lạc với chính phủ để góp ý và phê bình, quy định việc thi hành hiến pháp, liên lạc với đại biểu quốc hội khi cần thiết, cùng với chính phủ quyết định tuyên chiến, đình chiến hay ký hiệp ước.

 

Hồ Chí Minh không tham khảo ý kiến ban Thường trực Quốc hội, mà Hồ Chi Minh chỉ hội ý riêng với Trung ương đảng CSĐD, rồi quyết định tấn công Pháp.  Điều nầy có nghĩa là không phải Quốc hội Việt Nam hay ban Thường trực Quốc hội Việt Nam, tức không phải là đại biểu nhân dân Việt Nam quyết định chiến tranh với Pháp, mà Hồ Chí Minh cùng với Trung ương đảng CSĐD tự ý quyết định tấn công Pháp tối 19-12-1946.

 

Cần chú ý là khi quân Pháp nhờ người Anh giúp đỡ tái chiếm Nam kỳ từ tháng 9-1945, rồi lại đưa quân ra Trung và Bắc kỳ, tổ quốc Việt Nam đã thực sư lâm nguy từ lúc đó.  Dầu vậy, Việt Minh không kêu gọi toàn dân chống Pháp, mà Việt Minh kiếm cách thương thuyết với Pháp để tồn tại, duy trì quyền bính.  Nay không còn thương thuyết với Pháp được nữa, hết cách thỏa thuận với Pháp, Việt Minh mới quyết định đánh Pháp, là vì Việt Minh lâm nguy chứ không phải là tổ quốc lâm nguy. 

 

Như thế rõ ràng đây là chiến tranh giữa Việt Minh với Pháp, nhưng ngày hôm sau, 20-12-1946, trên đài Phát thanh Bạch Mai, Hồ Chí Minh đưa ra chiêu bài độc lập dân tộc, kêu gọi toàn dân kháng chiến chống Pháp, đổ gánh nặng chiến tranh lên vai dân tộc Việt Nam. Do chiêu bài nầy mà nhiều người đứng lên đáp lời sông núi, lên đường theo Việt Minh chống Pháp.

 

2.-  THÀNH PHẦN TOÀN DÂN

 

Dựa vào lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, các sách lịch sử do cộng sản xuất bản, gọi cuộc chiến tranh bùng nổ tối 19-12-1946 giữa Việt Minh với Pháp là cuộc chiến chống Pháp của toàn dân Việt Nam.  Vậy toàn dân lúc đó là những ai và thái độ chính trị như thế nào?

 

Trước đây, xã hội Việt Nam được chia thành bốn hạng “sĩ nông công thương”.  Qua thời Pháp thuộc, sự phân hạng trên không còn thích hợp, vì trong xã hội mới, văn hóa thay đổi, chính trị thay đổi, kinh tế thay đổi, quan hệ sản xuất thay đổi.  Vì vậy, tốt hơn ở đây xin dựa vào nơi sinh sống, để chia toàn dân thành dân thành thị và dân nông thôn, dân miền núi.

 

THÀNH THỊ

 

Về chính tri, dân thành thị thời đó gồm bốn nhóm: Đầu tiên là giới quan lại triều đình, công chức thời Pháp thuộc và công chức thời chính phủ Trần Trọng Kim.  Có người bị Việt Minh gọi là “Việt gian”, “tay sai thực dân Pháp”.  Nhóm nầy tản cư để tránh lửa đạn

 

Nhóm thứ hai gồm những người không có lập trường chính trị rõ ràng, không thân và cũng không chống bên nào, chỉ muốn yên ổn làm ăn sinh sống.  Khi chiến tranh xảy ra, họ tản cư về các vùng nông thôn bình yên, tránh chiến tranh.

 

Khi Pháp đẩy lui Việt Minh, thì hai nhóm nầy quay về thành thị, tiếp tục làm ăn sinh sống dưới quyền của người Pháp như trước đây, không chú ý đến chuyện chính trị.  Như vậy, hai nhóm trên không tham gia cuộc chiến Việt Minh-Pháp.

 

Nhóm thứ ba ở thành thị là nhóm trí thức tiểu tư sản, có tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm, đứng lên đáp lời sông núi, tham gia kháng chiếng chống Pháp, không nghi ngờ và không hay biết âm mưu và thủ đoạn của Việt Minh và đảng CSĐD.  Nhóm nầy bị Việt Minh cộng sản thanh lọc năm 1949 sau khi Việt Minh bắt đầu khá mạnh nhờ nhận viện trợ của Trung Cộng.

 

Nhóm thứ tư ở thành thị gồm những người có cảm tình và theo Việt Minh, hay đảng viên CSĐD.  Nhóm nầy tuy ít nhưng hăng hái, tích cực, chấp nhận gian khổ, tranh đấu vì lý tưởng chủ nghĩa cộng sản.

 

Khi trở lui Việt Nam, Pháp dùng chiến thuyền đổ quân vào các hải cảng, đánh chiếm trước các thành phố duyên hải.  Từ đó, Pháp mở rộng vùng kiểm soát.  Pháp để yên cho dân chúng sinh sống trong vùng Pháp chiếm đóng nếu không chống Pháp, không làm hại đến an ninh.  Vì vậy, sau khi Pháp ổn định các thành phố, thì nhiều người hồi cư về thành phố, tránh chiến tranh, nhứt là từ năm 1949, khi chính phủ Quốc Gia Việt Nam được thành lập và cũng là lúc Việt minh mở những cuôc thanh trừng nội bộ, loại bỏ những thành phần trí thức tiểu tư sản. 

 

Từ đó, thành phố càng ngày càng đông đúc.  Ví dụ điển hình, trước chiến tranh, Chợ Lớn có 500,000 dân.  Năm 1949, Chợ Lớn có 1,500,000  dân. (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn: Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 173.)

 

NÔNG THÔN VÀ MIỀN NÚI

 

Dân nông thôn chiếm đại đa số trong tổng dân số Việt Nam, gồm nhiều thành phần: chủ đất (dịa chủ), nông dân, tá điền (cày thuê), thợ thủ công (mộc, nề, dệt, gốm…), buôn bán nhỏ, làm công (giúp việc).  Nông thôn ít trường học, có vùng không có trường học, nhứt là miền núi, nên trình độ văn hóa trung bình thấp, nhiều người mù chữ, dễ bị tuyên truyền, dụ dỗ.   Đất đai là tài sản của dân nông thôn, không di dời được, nên dân chúng phải bám đất mà sống, ở yên tại chỗ, dù không theo cộng sản cũng bị cộng sản khống chế, nên phải tuân theo lệnh của cộng sản để sống.

 

Nông thôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống: 1) Về kinh tế, nông thôn cung cấp lúa gạo, thực phẩm cho thành phố, kể cả cung cấp thực phẩm nuôi quân và cán bộ Việt Minh.  2) Về quân sự, Việt Minh dùng nông thôn và vùng rừng núi làm hậu cứ, lập hầm bí mật để trốn tranh.  Việt Minh ngụy trang thành nông dân, trà thộn ở nông thôn.  Nông dân là nguồn nhân lực cung cấp lính cho Việt Minh.  Nhờ đi lại với thành phố, nông dân còn cung cấp tin tức tình báo và quân sự cho Việt Minh.  Việt Minh kiểm soát chặt chẽ dân cư nông thôn, đoàn ngũ hóa dân chúng, huấn luyện dân quân, thi hành kế hoạch của Trung Cộng: Lấy nông thôn bao vây thành thị.

 

Quân đội Liên Hiệp Pháp không thể kiểm soát tất cả nông thôn khắp nước, mà chỉ đóng quân trong các căn cứ, ở các thị trấn, rồi mở những cuộc hành quân tảo thanh Việt Minh.  Quân Liên Hiệp Pháp (Pháp, Bắc Phi) khác chủng tộc, khác ngoại hình, dễ bị nhận biết, nên hành quân đến đâu, dân chúng biết ngay.  Dân chúng bắt buộc phải báo tin cho Việt Minh vì nếu không sẽ bị Việt Minh trừng trị ngay.  Khi quân Liên Hiệp Pháp rút về căn cứ, Việt Minh trở lại hoạt động, nhứt là ban đêm.  Việt Minh tổ chức kiểm điểm và xét xử.  Những ai bị tố cáo là “Việt gian”, tiếp tay cho Pháp, sẽ bị tử hình.  Nhờ khủng bố một cách sự tàn ác, Việt Minh khống chế được dân nông thôn theo lệnh của Việt Minh.

 

KẾT LUẬN

 

Như thế, hai yếu tố trên đây (nguyên nhân chiến tranh và thành phần dân chún đủ cho thấy chiến tranh 1946-1954 là cuộc chiến giữa Việt Minh cộng sản với Pháp, chứ không phải giữa toàn dân Việt Nam với Pháp.  Đó là vì Việt Minh bị Pháp dồn vào thế cùng, nên Việt Minh đánh Pháp để trốn chạy khỏi Hà Nội.  Không phải toàn dân chống Pháp, vì phần lớn dân chúng tìm đến vùng an ninh, nhứt là các thành phố đề sinh sống.  Dân chúng nông thôn không chạy được, phải bám đất để cày bừa, dầu không theo Việt Minh vẫn bị Việt Minh kềm kẹp, kiểm soát chặt chẽ.

 

Vì vậy, không thể gọi chiến tranh 1946-1954 là chiến tranh Việt-Pháp, mà nên gọi cho đúng sự thật là CHIẾN TRANH GIỮA VIỆT MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG VỚI PHÁP.  Lúc đầu Việt Minh thua chạy.  Đến năm 1949, Trung Cộng thành công ở Trung Hoa. Trung Cộng bắt đầu viện trợ dồi dào cho Việt Minh, làm thay đổi cuộc diện chiến tranh …

 

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 29-04-2018)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.