Hôm nay,  

NGÀY ĐẦU NĂM

24/01/202000:00:00(Xem: 4319)
Hình chính N.MountainMindscape#4_2
Hình minh họa: Bộ tranh sơn dầu: Tâm Cảnh - Nguyễn Việt Hùng


Thằng bạn kể, khi nó vào thăm Má nó đang ở nursing home, má hỏi:

"Mày vừa từ địa ngục về thăm tao đó hả?"

Nó vừa dứt tiếng thì trời nổi gió gào, và tối om, và tôi với tên bạn lạc nhau.

Đường ra đường vào mà tôi nhớ hình như chỉ có một. Con đường nhỏ, mấp mô, vừa có núi lại vừa có biển, lối vào lối ra là con đường đá đục theo chân núi xám gồ ghề lởm chởm, bước đi lâu lâu lại vấp phải cái gì như là gò mối thấp cao, lổn nhổn, bên kia thì sóng gió vi vút vi vu. Đường mặn và hình như thơm, mùi ngai ngái nặng một chút nhưng thấm đẫm thịt da. Hơi thở rộn ràng, hốt hoảng, tôi kịp nhận ra làng ven biển mà tre xanh mọc lên san sát xanh rờn. Trong khoảnh khắc, nhiệt độ lại hạ xuống đột ngột, không khí mặn, lạnh bám chặt vào mi mắt, rồi hồi nào không biết đã biến thành những hạt muối lăn tăn cấy vào mi mắt cay xót.

Cất tiếng gọi nhưng thằng bạn đã hoàn toàn mất tăm.

Xóm Lá

Con đường chênh chếch ngoằn ngoèo bỗng dựng lên một xóm lá. Mấy căn nhà cất sát dựa vào nhau, vách căn này khởi sự vách căn kia. Mái lá vách phên hoang sơ, giống như mấy cái chòi tạm cất lên để chăn giữ vịt đồng, hở trước gió lùa sau. Hết mùa, chủ lùa vịt đi bỏ không cho gió hú.

Một chị mời tôi mua mít phơi khô, mít một nắng mới còn deo dẻo, còn hăng mùi nắng, ngậm vào cái hậu thơm ngọt ngọt đọng mãi trong cổ, chớ không khô queo trắng xát, nhai kêu rùm rụm như mít sấy điện đang bán đầy đường đầy chợ những ngày giáp Tết này. Này là nhà bên cạnh bán kẹo mạch nha, nhà kế nữa bán túi xách đan bằng lác, này nhà cô Sáu bán mực khô, tôm khô, căn gỗ cuối xóm bà Tám bán nón lá... Lạ thật, mỗi nhà như một căn chòi bé sơ sài xiêu vẹo, vậy mà căn nào căn nấy cũng bày quầy hàng hoành tráng mặt tiền... Và luôn có vài người đàn bà lăng xăng đứng mua bán món gì đó. Nhà mặt tiền, danh hiệu ám ảnh, nơi đâu, cõi nào cũng có giá, đắc địa, kênh kênh.

Tôi đi quanh rẽ quẹo, không nhớ lắm mình đang đi chơi một mình hay đang cố đi tìm tên bạn thân bị lạc, thì đụng đầu một căn khang trang khá rộng, rộng cỡ bốn năm căn chòi tôi đã vào, đã mua hàng, và có lẽ là đang rộng nhất xóm...

Anh Lập đang ở đó, và ô, có cả anh Mai.

Anh Lập hỏi:

"Em mua cán cờ không? Mua cờ không?"

Anh Mai đứng khuất phía sau một chút, vẫn luôn tay khéo léo chuốt láng bó cán cờ bằng tre trắng muốt, chuốt món nào xong thì gọn gàng cắm chúng vào cái thùng sắt vuông. Cán cờ lớn nhỏ dài ngắn vuông tròn đủ kiểu, anh hơi cười cười ngước lên hất đầu chào tôi, rồi lại cắm cúi chăm chú làm việc.

Sân vườn hoa nhà anh Mai ngày trước trồng đầy các thức kỳ hoa dị thảo, đủ các tính cách hương thơm, sắc màu. Dạo anh bỏ nhà đi biệt, bà Tám ở nhà giữ vườn dữ như ma, ích kỷ như quỷ, là kiểu nói so sánh của chúng tôi hồi đó, đâu còn cho chúng tôi ghé vườn anh dạo chơi thoải mái lung tung, và thỉnh thoảng rình không ai chú ý liền nhanh tay hái trộm đám búp ngọc lan trắng nõn, trong xanh, đem về ủ trong sách vở, áo quần. Bông lan đang tươi hóa thành đen héo, nhưng khi mở tủ áo quần, sách vở, mùi thơm ngào ngạt tuôn vào mũi, bay ra, xông hương gần suốt căn phòng.

Tôi hỏi anh Mai:

"Bà Tám bán nón lá ở đây, phải không anh?"

"Hồi đó em ghét bà Tám lắm mà, sao giờ lại hỏi?"

Tôi hơi mắc cỡ:

"Tại tụi em hay hái trộm bông, bị bà chửi..."

Những lá cờ giấy, cờ vải, và toàn bộ là cờ Phật giáo năm màu đỏ xanh cam vàng trắng sắp hàng ngang từng lớp, mà vạch cuối là tổng hợp những miếng nhỏ đủ năm màu hàng dọc, phấp phới. Không thấy hai anh bán màu cờ gì khác.

Tên anh Mai đầy đủ là Ngụy Như Mai. Anh vô cớ bị gọi đi học tập vì ý nghĩa cái tên.  Ngụy như mai, là ẩn ý thầm khen chế độ mỹ ngụy đẹp như màu hoa mai, theo sự phán xét và suy diễn của các bác công an phường và cán bộ chấp pháp, không chắc có đúng ý nghĩa như bố anh nghĩ khi đặt tên anh không. Gia đình có căn biệt thự nghỉ mát đầy hương hoa thuê bà Tám chăm sóc canh giữ, người nhà anh thay phiên nhau đi nghỉ mát mỗi lần họ rỗi rảnh hoặc cần thiết ghé qua. Chúng tôi quen biết nhau một dịp anh đi dạo chợ gần đó, ghé qua hiệu sách Bình Dân, nơi tôi chưa lớn, vẫn còn thích bẻ bông trộm, thỉnh thoảng đứng phụ bán sách vở, giấy bút cho bác Hồng Nhật, bạn tù, và bạn sách vở của ba tôi.

Bác Hồng nói:

"Bình Dân vì tao bán đủ loại sách từ cao cấp tới bình dân, trình độ nào, độc giả nào, ý thích nào cũng tìm được sách ở đây mà đọc..."

Và ba tôi thì nghĩ tới một kỷ niệm xa vời trong lịch sử nào đó, thời bác Nhật và ba tham gia phong trào toàn quốc kháng chiến, họ gặp nhau và kết bạn lúc cùng ở tù Côn Đảo:

"Bình Dân là kỷ niệm gợi nhớ Mặt Trận Bình Dân khuynh tả Pháp do chính phủ Léon Blum lãnh đạo."

Hai tay ôm lễ mễ những món đồ vừa mua được trong xóm lá: hai cây cờ Phật giáo, một cây lớn cán dài để cắm trước nhà trong ngày đại lễ Đản Sinh, một cây nhỏ gọn cán tròn ngắn phòng khi chạy biểu tình chống đàn áp; mít khô thơm ướt rịn mật dinh dính nơi tay; hai cái giỏ lác, một cái màu mè thêu bông mai vàng trên dáng cây nâu để đi dạy học, một cái vàng tối để đi chợ; kẹo mạch nha vàng óng và đặc, cô Sáu bảo nấu bằng mầm lúa non mới ủ, đặc sản cô học được cách nấu lúc thoát ly ra vùng kháng chiến Quảng Ngãi chớ không phải thứ đường đen nấu kẹo giả mạo. Anh Lập trao cho tôi một túi kẹo bonbon trứng chim ruột hạnh nhân hai màu xanh biếc, hồng nhạt, nói của bác Phú gởi giữ đỏ, bao giờ tôi đến thì đưa. Tấm ảnh anh Nghĩa đeo súng miệng rộng cười tươi hết cỡ trong đám rừng lau sậy um tùm, có bụi còn cao ngang đầu anh. Sau lưng ảnh là dòng chữ viết vội chép cho tôi lời nguyên bài hát Cho tôi sống lại một ngày, có nắng vàng Paris, có heo may Hà Nội, tiếng hát muôn vạn con người nô lệ trong không gian, trên lề đường, ngoài góc phố, nơi góc chợ, trên quán nước... chân cột đèn nơi xưởng thợ... và cả miền xa xôi đồng nội... Chúng tôi chào cách mạng thành công! Chữ nọ xọ lên chữ kia như thể anh đang kê tấm ảnh lên đùi hoặc lên một cục đá trong rừng mà viết... bao nhiêu ngày tháng trôi đi mà sao tấm ảnh không hề vàng ố và nét mực vẫn tươi nguyên.

Bác Phú thường đón má trong những chuyến má tôi mua ra bán vào những viên quinine tròn tròn be bé, màu vàng xanh, là những chuyến buôn lậu vì tổ quốc, bác đón mẹ, giấu thuốc men và tài liệu vào những hộp, tủ hồ sơ đựng hồ sơ công văn đến và đi của văn phòng công chứng Pháp, sở bác làm việc. Hình như má yêu bác, hình như bác yêu má, nhưng họ không lấy nhau thành vợ thành chồng, vì đang phải chờ một người vắng mặt là ba tôi.

Sài Gòn lúc ấy, gia đình chúng tôi và bạn bè vẫn đêm đêm nghe lén đài V.K.C đây là đài phát thanh VKC, Vùng Kháng Chiến... Hồi đó có thể nói khoa trương cho vui là Vợ Kháng Chiến cho hợp với tâm trạng ngổn ngang đợi chờ của má tôi và nhiều người đàn bà khác đang ở thành, và đang có chồng tham gia kháng chiến trong mật khu.

Sau này khi qua Mỹ định cư rồi, có đùa đùa nhắc lại, có người bảo má:

"Phải đọc VKC là Việt Kiều Cũ mới đúng! Đúng là đài phát thanh tiên tri."

Việt Kiều Cũ, là hàm ý phân biệt những người dính líu ít nhiều đến Việt Nam Cộng Hòa, Mỹ ở miền nam trước 1975... Việt kiều Mới là những người vốn miền Bắc, mới đi du học hay mới đi định cư Mỹ, và quá khứ họ ở miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa. Ôi chao. Bắc kỳ ở miền nam thì chúng tôi đã có Bắc kỳ 54, Bắc kỳ 75, Bắc kỳ chín nút, mọi người đều thản nhiên chấp nhận, người gọi và người bị/được gọi thản nhiên như nhau. Như lịch sử đã từng có thời kỳ Trịnh Nguyễn, Nam Bắc phân tranh. Và Pháp thuộc, và ba Kỳ.

Ba tôi chưa kịp chờ có giấy xuất cảnh do thân nhân bảo lãnh thì đã không ốm mà qua đời! Có thể nào một ông già trên bảy mươi vốn đã mình hạc xương mai mà cứ dạo ấy, được nuôi dưỡng tẩm bổ toàn bằng cơm độn mì, mà mì nhiều hơn gạo, lại còn khi có khi không, khó mà sống qua nổi những ngày tháng ấy.

Nhưng đó là mấy chuyện lộn xộn về sau.

Dạo ba chưa ở tù, chưa vào bưng, vừa làm công chức cho Pháp, vừa hoạt động nội thành, má kể, má vẫn thường ăn mặc giả trang làm vợ các ông lớn kháng chiến, Má xinh đẹp, nói một chút tiếng Pháp, đã đưa đón trót lọt các ông lớn này từ thành vào bưng, từ tổ kháng chiến bí mật này chuyển tránh sang tổ kháng chiến khác, những khi bắt được tin tình báo có mật thám Tây bố ráp hay mật vụ Cộng Hòa bao vây. Trước khi ba bị Pháp bắt và đầy ra Côn Đảo, cậu Đình, em của má, bị Pháp bắt trong trận đảo chánh Nhật-Pháp, có ăng-ten trong tù khai ra cậu là trưởng ban an ninh thành phố Thủ Đức lúc Việt Nam tuyên bố giành lại độc lập từ tay Pháp. Chính phủ thuộc địa Pháp với sự hỗ trợ của đồng minh đã trở lai, bắt giam và đầy cậu ra Côn Đảo. Khi ba tôi ra đến nơi thì nghe các bạn tù kể lại, cậu đã bị các bạn cùng phòng xử chết và chôn sấp mặt, vì đã không chịu tham gia vào các sinh hoạt đảng ở đấy. Trong khi ở Sài Gòn, một người anh họ của má, cậu Tấn, vai anh cậu Đình, làm hung thần giám đốc Khám Chí Hòa, nhà lao chuyên nhốt tội phạm cách mạng chống Pháp khét tiếng. Khám Chí Hòa, một kiến trúc hình bát giác đóng kín không lối thoát, số 1 đường Hòa Hưng, nhà lao lớn nhất miền Nam một thời, sau này gọi là thống nhất, nước non tìm về một mối, vẫn cứ là nhà lao kiên cố của chế độ mới.

"… Nghĩa đang đi lưới với Ngọc ngoài khơi, em muốn chờ đến chiều để gặp ảnh không?"

Ngọc là cháu gọi ba tôi bằng bác. Năm 1975, tháng 7, Ngọc là người sớm sủa nhất vượt biển bằng thuyền từ quê gốc Thanh Hóa của ba tôi vào Nam, và tìm theo địa chỉ lần mò ra xóm, đến thăm gia đình ông bác ruột đã đi học ở Huế, đất nước chia hai, ông bác vào Sài Gòn làm việc, sinh sống rồi lập gia đình ở đó là ba tôi. Ngọc chỉ nghe hóng chuyện qua những tấm bưu thiếp hiếm hoi từ ông bác trong Nam gởi ra mỗi năm một lần qua địa chỉ chuyển tiếp của Ủy Hội Quốc tế.

Ngọc thăm, cả nhà, ai cũng rất cảm động. Nhưng sau đó Ngọc đã làm mọi người trong nhà sửng sốt, và sốc, sau khi má tôi cần mẫn nấu mâm cơm tạm tươm tất có chút thịt chút cá gọi là đãi khách ngoài Bắc, mời Ngọc, trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn tranh sáng tranh tối, lúc tất cả chúng tôi đều thất nghiệp, ba thì đang đau khổ mất lương hưu. Ngọc ăn một mạch xong, vừa tí tách súc miệng ngậm tăm uống nước, vừa quét mắt quan sát bao quát mà tỉ mỉ đồ đạc tủ chè, bàn ghế, ti vi, máy may, tủ lạnh... nhà ba mẹ tôi.

Rồi đột ngột bỗng nói:

"Tất cả chỗ này trước sau sẽ đều là tài sản của nhân dân."

Ngọc chưa đủ thời cơ để đoạt lại tài sản từ tay nhân dân nhà tôi nhưng nghe đâu, con cái anh sau này đi bộ đội may rủi thế nào, khi phục viên về làm ăn có đường dây quen biết, đã mua trúng liên tục mấy mảnh đất vàng, đất quốc phòng, và trở thành những đại gia địa ốc tiếng tăm danh giá nhất nhì đất Thanh Hóa.

Đi VMiền Nam

Chiếc máy bay cuối cùng lao vút đi và mất dáng vào chân mây. Các phương tiện động cơ nổ ngoài phố, khi con lộ còn đầy nhóc các loại xe tự động, xe lam, xe buýt, xe nhà binh, xe jeep, xe đò, xe máy, lambretta, honda, vespa cá nhân, thậm chí cả xe đạp, chen chúc, luồn lách, húc lẫn nhau, chen nhau, hú còi, qua mặt nhau, tiến lên. Bắc quân đã vượt qua con đèo hiểm yếu ngăn cách thành phố với tỉnh liền kế phía Bắc, cửa ải duy nhất đã bị phá vỡ, đèo Phượng Hoàng đã thất thủ. Tin lan đi nhanh như mực trên giấy thấm, Bắc quân đã giải phóng Tây nguyên, quân miền Nam lần lượt theo lệnh tổng Thiệu truyền đi trên tivi rút lui chiến thuật. Và mọi người quân dân cán chính thi nhau tăng tốc. Dù trên đà tăng tốc, dù lúc đó chưa có BOT hiện đại chặn thu phí đường như sau này ác ôn, con đường từ trung xuôi nam, con đường từ các cửa ngõ Tiền Giang, Hậu Giang ùn ùn tiến về Sài Gòn càng kẹt cứng. Đi về miền nam, miền xanh tươi bông lúa tràn ngập đầy đồng, Đi về miền nam, miền xanh tươi đất rộng cùng bao nguồn sống* như cái thuở di cư năm tư thuở nào. Người Nam di cư một lần, người Bắc di cư hai lần, nhưng thuở đó người Bắc ra đi với tâm thế ta cười cất bước ra đi, ta cười những lúc phân ly Hà Nội ơi! Nếu kể cả lần bỏ phiếu bằng chân sau này, người Bắc di cư ba lần người Nam hai lần và có điểm chung là Sàin đã mất rồi, phải mang tên xác người** với đủ loại ô đi ghe, ô đi bộ, ô đê pê. Sau này khi vượt biên ở trại tị nạn Hồng Kông, chúng tôi gặp vô số người từ miền Bắc vượt biển bằng ghe thuyền đến nơi. Do người Việt trốn ra khỏi nước từ hai miền Nam Bắc nổi lên chém giết nhau vì hai lý tưởng quốc cộng, chính phủ Hong Kong tách chia người tị nạn Việt ra ở hai hải đảo cách biệt nhau, tuy cùng là hai trại cấm, canh gác nghiêm nhặt như hai trại tù trên biển, Heng Ling Chau là trại Bắc, Chi Ma Wan là trại Nam.

Requiem Dạo Khúc

Bây giờ vẫn vậy, Tây Tàu Mỹ Nhật gì, người Việt tụ năm tụ bảy theo lý lịch Nam hay Bắc. Bài học phân chia lý lịch, theo dõi thái độ chính trị của nhau, tố khổ đổ tội nhau kiểu cải cách ruộng đất, dân ta học rất nhanh, thuộc và nhớ làu làu, và vẫn chảy cuồn cuộn trong máu me của thế hệ di cư thứ nhất ra nước ngoài. Đó là khúc mở đầu, chưa phải là khúc cuối.

Sau khúc dạo đầu mọi người hớt hải bỏ chạy, khúc trung chuyển mọi người mệt mỏi trở về, mọi người lơ láo trình diện, và mọi người chuyên cần cày cấy lao động học tập theo gương ai đó... Đổi tiền, tiền bỗng như tờ giấy lộn, năm chục đồng đi được cả buổi chợ gia đình, giờ chỉ mua được một que kem, loại kem làm bằng nước đường pha loãng, ăn nhiều thì ỉa chảy té re, và sình cả bụng.

Về sau thành phố đồn lên chủ tiệm bán kem duy nhất dám bán kem thu tiền ngụy trong lúc cả nước hoảng lên vì vỡ trận đổi tiền, là ba của Ẩn. Ba Ấn nối đường dây đổi tiền cũ Mỹ Ngụy được thành tiền cách mạng phơi phới, và uy nhất là muốn đổi nhiêu thì đổi không hạn chế như mọi người.

Tôi đang đụng đầu Ẩn nơi xóm lá. Lần này dường như nó vẫn là bạn thân bộ ba của chúng tôi nhưng không bán cà-rem mà lại bán xì dầu. Đã mua quá nhiều quà, lần này tôi không mua gì cho Ấn, nhưng cũng dừng lại quán nó xớ rớ một lát, chưa kịp hỏi vì sao mà ông cũng ở đây, thì nó đã tía lia:

"Ẩn bị rớt lại, ba đi học tập chưa về, chờ được ổng về mới bỏ chạy? Và chạy lại nhiều lần nữa..."

Ẩn học một lớp đệ thất trường Bồ Đề với tôi, với Nữ, nhà nó có ông chú cách mạng nhảy núi về, được chính quyền cách mạng chấp nhận cho đòi lại nhà của ba nó, ba nó trình diện học tập một lát về thì cũng tham gia vượt biên. Nơi xóm lá, nó ở chung nhà với cô Sáu, là má vợ nó.

Tôi, Ẩn và Nữ, một đứa là con gái, hai thằng con trai, không hiểu sao chúng tôi lại chơi bộ ba từ trung học, rồi lớn lên, đi làm, lấy vợ lấy chồng, đổi qua tỉnh này thành phố nọ nhưng cứ thế, cứ ráng giữ liên lạc là bộ ba.

Nụ Cười Mưa

Sáng nay mưa, nhưng thành phố vẫn rợp trời với cờ xí, banderole, biểu ngữ. Meeting mừng chiến thắng. Mọi người theo tổ dân phố đều tham gia, chỉ cắt một người ở nhà giữ nhà, Trong không khí hồ hởi phấn khởi, nói theo ngôn ngữ mới, ba tôi một mình ở nhà nắn nót trân trọng viết những dòng thư gởi đi cho các ông bạn, những ông lớn kháng chiến đã một lần, nhiều lần, ăn ở, trốn tránh thực dân Pháp, bọn chính quyền Mỹ Ngụy, trong nhà gia đình ba má tôi, đã nhiều lần, để giúp mấy ổng vượt qua những vòng vây siết chặt của địch, má tôi từng đóng giả vai làm người vợ trẻ ngoan hiền lương thiện đi với chồng trên đường về quê ngoại đưa mấy ổng đi trốn.

Thư gởi đi vô số mà chờ hoài, không có ông lớn ông nhỏ nào hồi âm. Mặc dù ba tôi đã dò la kỹ theo tin tức báo đảng về chức vụ, cơ quan chính xác của mấy ổng. Bây giờ họ đang thực sự là những ông lớn của một triều đình công khai ra thế giới. Cái tình cảm vụn vặt thủa trốn tránh bí mật cục muối cũng cắn cục đường chia hai chắc là đã lạc hậu quá rồi, ba tôi có thể nghĩ ra nhưng vẫn cố vô vọng bám víu. Trước sau, ba tụi mày vẫn là một trong những người thuộc hành tinh khác, má nói vậy. Còn một sự thật mà tôi vẫn muốn giấu má, khi tôi vượt biển từ đảo tới được Mỹ, cô em đã định cư ở đó trước, ngay đêm thứ nhì gặp nhau, đã đưa ra một bức thư ba viết cho một ông lớn ngoài Bắc, và nhờ em tôi tìm cách từ Mỹ gởi về Hà Nội cho ông. Cho tới ngày ba chứng kiến gia đình con cái vợ chồng tôi bị đẩy ra khỏi nhà chúng tôi vì lý lịch Ngụy, và cho tới ngày ông qua đời trước khi kịp được con gái vượt biên bảo lãnh qua Mỹ, những bức thư hân hoan rộn rã thắm thiết tình thân nhất của ông chẳng bao giờ có người trả lời.

Hôm nay mưa dông một trận nát cả hoa vườn, nhưng thơ mộng một cách giễu cợt, nhớ tới những meeting cờ xí dưới mưa tôi vẫn gọi đó là mưa hoa. Và tên bạn thân con trai đàn ông mà tên Nữ cũng là một chuyện giễu cợt khác, hắn chắt lưỡi bảo:

"Bà đừng đi lạc nữa, lạc vào ngày hôm qua thì còn được, chớ lạc vào những chuyện năm, ba mươi năm trước là lạc quá xa rồi! Coi chừng có ngày lạc luôn vô ... địa ngục!"

Ôi chao, cứ coi như là một cảnh cáo quan trọng nhưng chưa nghiêm trọng lắm mà tôi được nghe nhiều lần chỉ nội trong một ngày hôm nay. Nhưng tôi cũng sẽ cảnh cáo lại Nữ, hắn và tôi (không kể các con các cháu) chúng tôi cũng đang lạc đến Mỹ quốc đây mà.

Và sẽ cho hắn xem cái ảnh xóm lá mà tôi chụp được, tất cả mọi người đều mặc áo trắng, buộc tóc bằng dây ruy băng trắng, nhưng ô hay, tấm ảnh chỉ ghi lại được lô xô những cái bóng đen âm bản, hàng quán, triền núi, bãi biển, hàng tre lấp ló sau lưng thì lại trắng xóa bờ lau... Những miệng cười mở rộng của anh Nghĩa, Lập, Mai, bà Tám, cô Sáu, Ẩn… cũng chỉ là những hố sâu đen ngòm, sâu hoáy, nhưng may, nét điểm xuyết của mấy hàm răng trắng xóa trông cũng ra nụ cười dưới mưa.

Bước Chân Trong Sương

Cụ Hyo Chung He. Cụ vẫn chống gậy dò dẫm bước từng bước, từng bước, dạo trong sương, dù nhiệt độ đang từ 22F hạ xuống 18F hôm nay. Tôi hỏi cụ có họ hàng với tổng thống Park Chinh-Hy không, hỏi chơi thôi. Cụ nói một ít tiếng Anh, tôi một ít, ráp lại thành được nhiều câu chuyện.

Chuyện những người đàn bà ở xứ sở cụ bước vào tuổi sáu mươi, bảy mươi, có cụ cao nhất đến tám mươi, những ngày này cha mẹ con cái không ai đủ sức nuôi ai, không người trợ giúp, các bà ra đứng đường làm gái mãi dâm để tự kiếm sống. Bên đó, họ có tên gọi là các Bacchus Ladies. Chắc là kiểu mãi dâm bằng tay, kiểu này thì khá thịnh hành ở Nhật và Hàn, tôi không hỏi cụ Hyo về kiểu đoán mò này của tôi.

Người Hàn cũng có tục thờ cúng ông bà, cũng ăn Tết âm lịch như người Việt, nên cụ Hyo rất thích những khi Tết sắp đến, tôi hay đem treo một chùm pháo hoa lòe loẹt trước cửa. Cụ gọi, bảo tôi ghé vào nhà, và cho xem hình ảnh con cháu cụ, ngày mồng một Tết. Họ mặc âu phục lẫn hanbok rực rỡ, cả nhà đem bánh trái hoa quả lên tận vùng Phi Quân Sự DMZ bên ngoài Seoul, bày biện bàn thờ thức ăn, hoa quả, đặt trên mặt đất sát hàng rào biên giới... Rồi quỳ lạy hành lễ chesa vọng về tổ tiên còn sống hay đã qua đời và chôn cất phía bên kia, phía Bắc. Tôi nói, trước kia nước chúng tôi cũng có sông Bến Hải, và ba ngày Tết, từ phương nam, má tôi cũng thắp hương và bái vọng về phía Thanh Hóa quê nội tôi gần như thế. Nhưng giờ thì cầu Hiền Lương Bến Hải đã nối liền được lại rồi. Có điều chúng tôi giờ lại đang ở Mỹ. Giao thừa, chỉ nhắm hướng nam theo bản đồ thế giới mà vái thiên vái địa mông lung những linh hồn sống hay đã chết trong tâm tưởng chúng tôi thôi. Tôi định hỏi cụ Chung He, thế ba mươi Tết, cụ hướng về đâu mà thắp hương? Nhưng chưa có dịp hỏi, lại thôi.

Hàn quốc thì có Ladies Bacchus, Triều Tiên thì có xác ướp lãnh tụ, và cố quốc của tôi thì, gần Tết rồi, nhân dân, các ông bà quan lớn quan nhỏ đều có bổn phận phải đi Ba Đình thăm Bác xác ướp đang muốn nằm đó muôn năm!

Cụ sắp bước vào tuổi 85, không đau ốm gì, chỉ có đôi chân yếu ớt quá đỗi nên bác sĩ khuyên cụ nên siêng năng đi bộ. Và cụ nghiêm khắc giữ thời khóa biểu đều đặn này kể từ mười năm nay, trước ít lâu khi tôi dọn đến làm hàng xóm cụ. Cụ kiên trì nhẫn nại đi từng bước, chậm nhanh tùy từng ngày. Theo lễ phép của người Việt, ngày Tết, tôi chúc cụ sống lâu trăm tuổi, và nói thêm, chắc chắn cụ sẽ làm được mà. Cụ ngơ ngẩn ngó vào trong khoảng không giây lát rồi đáp:

"Hơn mươi năm nữa à? Con nói ta còn hơn mươi năm?"

Cụ cho tôi ăn bánh gạo cay nấu với thịt gà giống như kiểu bánh canh Việt, tôi nói để con mời cụ ăn thử bánh chưng ngày Tết của xứ con.

"Chỉ còn mình con biết ăn thứ bánh này thôi, con cháu lớn lên hoặc sinh ra ở Mỹ không còn muốn ăn thứ bánh này nữa đâu."

Sớm mùng ba Tết, tôi mở cửa, trời lạnh buốt. Ngóng sang phía nhà cụ, mong trời mau bớt lạnh để được thấy cụ bước ra đều dạo bước. Bụng bỗng lạnh buốt như có cơn gió thốc vào, nếu lỡ một ngày không có cụ, sương buổi sớm như kết làm một với những bước chân liêu xiêu của Hyo Chung Hy, như để hoàn thành một bức tranh toàn hảo.

Ôi cụ, không lẽ cụ chỉ là nét phác, người mẫu không thể thiếu của bức tranh ban mai thôi sao? Tôi thật vô lễ quá sức.

Tôi lại mở cửa thò đầu ra giá lạnh, ngóng xem Nữ đã đến chưa. Hôm nay hẹn đi với hắn vô nhà thương thăm má hắn. Bà già bị bệnh lãng trí, 5 năm rồi, bệnh chỉ có tăng mà chưa thấy giảm.

Và cụ Hyo đã có thể đi dạo được chưa.

Tất cả là bức tranh toàn hảo, cả âm bản và dương bản mỗi ngày đầu năm của tôi.

 

Virginia, 2/2018

____________

* Ca từ bài Về Miền Nam, Trọng Khương

** Ca từ bài  Cha bỏ quê, Con bỏ nước, Phạm Duy

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.