Hôm nay,  

Cái Ôm

10/04/202015:59:00(Xem: 5389)


1


Mẹ ngồi xem lại những tấm hình, những đoạn phim quay lúc đi chơi. Mẹ cười thích thú.


“Chỗ này vui quá! Đông người, nghẹt thở luôn, nhưng mà Mẹ thích lắm! Mai mốt cho Mẹ đi lại chỗ này đi con!”


“Dạ.”


An cười, nhưng chợt khựng lại với ý nghĩ không biết bao giờ mới có thể cùng Mẹ đến những chỗ đông vui như vậy. Hơn hai tuần lễ thực hiện điều “ở yên trong nhà” mà thấy lâu như cả năm. Mặc dù An đã kéo hết công việc về làm tại nhà, không phải đi đến sở, An thấy vẫn còn nhiều thì giờ trống. Chính là những lúc trước đây dành cho việc chạy bộ tập thể dục, là những lúc đẩy xe cho Mẹ đi dạo để hít thở chút khí trời trong lành, là những buổi họp mặt bạn bè, đàn ca hát xướng cho vui… Nhiều lắm! Khi bình thường không ai để ý những điều đó, đến khi phải sống trong một bầu không khí mới, sẽ thấy có sự khác biệt rõ ràng.


An có giải thích cho Mẹ, nhưng chỉ đơn giản, ngắn gọn thôi, không muốn khiến Mẹ lo lắng. Rằng lúc này mình không nên đi ra đường nhiều, nhất là người có tuổi như Mẹ, để tránh bị mắc bệnh. Rằng cái con virus này mới toanh, chưa có thuốc chữa, cũng chưa có thuốc ngừa. Rằng con virus này có thể truyền bệnh từ người sang người, do những giọt li ti bắn ra khi người ta ho hay hắt hơi. Rằng ngay cả thở vào nhau cũng có thể truyền những con virus này. Thế thôi! Nói như vậy chỉ để Mẹ yên tâm mà ở trong nhà, không bị buồn.


Mẹ nói Mẹ cũng có đầy kinh nghiệm về những con vật tí hon dễ sợ như thế. Mẹ nói sợ nhất là con vi trùng thương hàn. Mẹ nhắc về ngày xưa, khi Mẹ ở tuổi mới lớn, mắc bệnh thương hàn, nặng đến nỗi tóc tai rụng hết, mình mẩy trơ xương. Mẹ nhắc về những con virus làm cháu của Mẹ bị bệnh sốt xuất huyết, bị sốt bại liệt… Mẹ sợ đến nỗi ngày đêm cầu Trời khấn Phật cứu giùm các cháu.


Từ ngày Mẹ yếu đến nỗi di chuyển trong nhà cần có người theo một bên, phải dùng đến cái walker, Mẹ ít khi phải nghe những chuyện bệnh tật. Đó là vì không ai muốn Mẹ phải nghe. Tránh được thì tránh, không thì phải thật đơn giản, càng ít càng tốt.


“An này! Hai tuần nay không thấy anh chị đưa các cháu đến chơi.”


“Dạ, Mẹ, mình đang phải theo lệnh ở yên trong nhà.”


Mẹ thở dài:


“Ừ há! Mẹ quên. Vậy bao giờ Mẹ mới gặp tụi nhỏ?”


“Chắc cũng không lâu đâu Mẹ! Mình ráng chờ.”


An biết cho đến khi nào có vaccine để ngừa bệnh thì lúc đó mới thật sự yên tâm. Trong nhiều ngày nữa chưa chắc Mẹ sẽ được gặp các cháu. Mọi người dùng điện thoại để liên lạc. May mà có phương tiện này!


“Mẹ ơi, lúc này mình ít ra ngoài, Mẹ gọi điện thoại thăm mấy cô bác đi! Chắc họ cũng thích trò chuyện lắm đó!”


“Ừ nhỉ! Chắc họ cũng buồn vì không được đi đâu cả.”


Thế là Mẹ bắt điện thoại gọi cho mấy bà bạn. Những câu chuyện vui khiến Mẹ cười khanh khách. Nhưng cũng có lúc nét mặt của Mẹ trầm tư, Mẹ ngồi lặng yên không nói. Đến tối, khi thấy An hết việc rồi, Mẹ kể:


“Bác Hai, bác ấy nói là thấy buồn lắm, vì anh của bác ấy vào bệnh viện, mà người nhà không ai được vào theo, không được thăm, chỉ có thể nói chuyện qua điện thoại. Anh của bác ấy sắp mất rồi, mà bác ấy không làm gì được. Rồi thì như nhiều người khác, ông anh sẽ chết cô đơn trong bệnh viện.”


An dọn cơm ra chiếc bàn thấp cho Mẹ. Mẹ vẫn ngồi trên giường, xoay người ra để ăn cơm. An chạy ra khá xa, vừa dọn dẹp vừa nói chuyện với Mẹ. Mẹ hỏi:


“Sao con không ăn cơm luôn?”


“Mẹ ăn trước đi, con làm chút chuyện rồi ăn.”


Mẹ có vẻ không vui. Thường ngày hai mẹ con cùng ăn cơm với nhau, hôm nay Mẹ lại phải ăn một mình. Thấy Mẹ giằm giằm cái muỗng trong chén, An bật cười, giải thích:


“Mẹ à, từ nay con phải đứng xa Mẹ một chút, vì con là người chăm sóc Mẹ, mà con lại còn phải ra đường đi mua thức ăn và các thứ cần thiết. Con có thể đang mang mầm bệnh mà không hay, lỡ con lây cho Mẹ thì khổ. Nhưng ngoài con ra thì không ai có thể thay con ở bên cạnh Mẹ. Vậy Mẹ chịu khó…”


“Mẹ hiểu rồi! Con nói phải. Mẹ hiểu mà!”


Ban đêm, Mẹ ngủ ngon, nhưng An lại trằn trọc. Những lúc ngủ không được, An thường chạy vào giường Mẹ, chui tọt vào chăn, ôm lấy Mẹ và ngủ được ngay. Nay thì không. Hai mẹ con hứa với nhau “giữ khoảng cách an toàn” như mọi người. Được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Và giữ như vậy sẽ giúp Mẹ “làm quen” với kiểu cách mới này, sẽ không trách móc khi mấy đứa cháu đến nhà mà không ôm hôn bà như trước.


 


2


Buổi sáng, Mẹ ở trong phòng tắm rất lâu. An rón rén đi vào, thấy Mẹ đang rửa tay. Mẹ nói:


“Bạn của Mẹ bảo phải rửa tay cho đúng cách, ít nhất 20 giây con ạ!”


An phì cười:


“Dạ phải. Con cũng định nói với Mẹ như vậy.”


“Ừ, có như vậy mình mới không bị bệnh. Mẹ sợ bị bệnh lắm!”


Mẹ tự đi ra với cái walker, không cho An giúp. Mẹ nói:


“Con cứ ở cách xa Mẹ sáu feet, để khỏi bị bệnh.”


An trố mắt:


“Mẹ biết chuyện này nữa?”


“Mẹ biết chứ! Coi TV thì biết. Mà bạn của Mẹ cũng nói vậy.”


“Dạ. Mẹ thật cẩn thận!”


An dọn bữa ăn sáng cho Mẹ. Mẹ nhìn các thứ trên bàn, lắc đầu:


“Thời buổi này mua sắm khó khăn, mình ăn tiện tặn lại con à!”


“Dạ. Thế này là quá tiện tặn rồi đó Mẹ!”


“Ừ… Con này! Tự nhiên Mẹ nhớ lại cái thời người ta phải dè sẻn mọi thứ. Gạo không có mà ăn, phải ăn độn. Rồi thì ai đến chơi nhà bạn hay nhà bà con, muốn ở lại ăn cơm thì phải đem theo phần gạo cho chính mình, nghĩ mà thương. Bây giờ không phải là không có tiền, mà là có tiền nhưng không mua được đầy đủ như ý mình muốn… Rồi thì… ở yên trong nhà, nhà ai nấy ở, cái gì mà “cách ly”, giống như giới nghiêm vậy, thật không khác gì thời chiến tranh. Nhưng mà… lại không giống. Thời chiến tranh, người ta còn tới nhà nhau, thăm nhau được. Bây giờ không ai tới nhà ai. Gặp nhau, lại phải đứng cách nhau 6 feet. Lạ quá!”


Mẹ nói từ từ, từ từ, nói xong thì cũng vừa hết phần ăn sáng. Mẹ nhìn ra cửa. An biết Mẹ đang nhớ giờ ra đường. Mẹ vốn yếu ớt nên mấy hôm nay An không muốn cho Mẹ ra ngoài. An mở máy cho Mẹ tập theo bài thể dục nhẹ nhàng. Xem ra Mẹ cũng muốn tập dần với những điều khác thường nhưng đang trở thành bình thường. Nhà một mẹ một con, An cũng nhắc mình phải tập dần. Dù muốn hay không, cũng phải công nhận rằng mình đang sống trong cái thế giới “ảo” nhiều hơn thật. Làm việc online, đặt hàng online, gặp nhau online… Đôi khi, anh chị ghé nhà An cho chút quà, hoặc đi chợ mua lặt vặt giùm An, chỉ đến trước cửa đặt giỏ xuống, có thấy nhau thì cũng phải đứng xa nhau 6 feet, chào nhau rồi đi. Cứ như là ai cũng sợ rằng chỉ cần tỏ tình thương mến qua những câu nói dông dài sẽ đủ khiến cả nhà con virus bay theo hơi thở mà vào mũi người kia. Nghe có vẻ như đùa mà dễ thành sự thật lắm, cho nên ai cũng tuân thủ nguyên tắc “social distancing.”


Mở những trang tin, những email các nơi gửi về, tràn ngập biết bao điều chia sẻ. Một bạn kể rằng ngay cả người trong cùng một nhà cũng giữ khoảng cách an toàn. Giờ cơm, mỗi người tự bới cơm, ngồi ăn ở các góc xa nhau. Hơi tếu một chút, chị nói hai vợ chồng chị lo sợ quá nhưng không muốn ngủ riêng, sợ bị buồn, nên thỏa thuận nằm ngược đầu nhau. Hai vợ chồng cuối cùng tự thấy mình vô lý, cùng cười xòa công nhận với nhau: nằm ngược đầu vô ích, trừ khi ai cũng có chiều cao 6 feet.


Một bạn tâm sự về nỗi khó khăn của mình khi đối diện với những câu hỏi của đứa con năm tuổi: “Vậy con không được cho ai ôm nữa sao?” Bé nói mà ánh mắt rưng rưng. Cha mẹ của bé phải giải thích một hồi, và cuối cùng lại ôm bé vào lòng để bé thôi tỉ tê.


Một ông anh, suốt mấy năm trời hàng ngày nấu thức ăn Việt mang vào nursing home cho vợ, nay không được cho vào. Anh vẫn mỗi ngày đội giá rét đến trước cổng nursing home, nhìn vào, rồi ra về.


Một bạn khác nói về nỗi ray rứt của mình khi nhớ cha mẹ già ở Việt Nam, biết bao giờ mới được bay về thăm cha mẹ?


Một bạn nữa nói rằng có người thân qua đời nhưng không thể đến dự đám tang, đành chia buồn với nhau trên internet.


An não lòng khi nghe một người quen của mình chào vĩnh biệt người nhà qua facetime, một người bạn đi sinh con một mình vì ngay cả chồng của chị cũng không được theo cùng. Và ngay lúc này, hiện ra trên màn hình computer, là câu chuyện một bà mẹ vội vàng trùm hết cả người cô con gái y tá một tấm trải giường, chỉ để ôm lấy con trong phút giây ngắn ngủi cô ghé nhà rồi lại đi tới tuyến đầu chống bệnh.


Khi càng ngày tin tức về những vùng dịch trầm trọng càng đến dồn dập, An tự nhắc mình đừng bao giờ đứng về một thái cực nào. Không sợ hãi hoảng hốt, mà cũng không thờ ơ lạc quan giả tạo. Dịch bệnh đang hoành hành, bao nhiêu mạng sống đã mất đi, bao nhiêu người đang hy sinh ở tuyến đầu, đó là sự thật. Con virus này không chừa một ai, từ ông thủ tướng, ông nghị sĩ, đến người bác sĩ, y tá, cảnh sát, quân nhân, người buôn bán, học sinh sinh viên… Con virus này không phân biệt tuổi tác, nam nữ, giàu nghèo, tôn giáo, màu da. Sức mạnh của nó còn hơn cả thiên tai, hơn cả chiến tranh!


 


3


Lần xong chuỗi hạt, Mẹ nhắc An:


“Con đi ngủ đi! Con làm việc nhiều quá!”


“Dạ, Mẹ ngủ trước đi! Con sắp xong rồi.”


 “Con đừng để bị bệnh nghen!”


An giật mình. Trước giờ Mẹ vẫn coi An là một người trẻ trung khỏe mạnh.


“Dạ không, con không dễ bị bệnh đâu!”


“Con đừng tự tin quá! Chưa có vaccine ngừa cái con virus này đâu con!”


“Dạ con biết. Bao giờ có, mình sẽ thật sự an tâm ha Mẹ!”


An lắc đầu, tắc lưỡi. Phục Mẹ quá! Mẹ bây giờ quan tâm đến nhiều thứ hơn mình tưởng. Rất may là Mẹ có cái thế giới bạn bè của Mẹ, chuyện trò với nhau qua điện thoại mỗi ngày. Như vậy cũng hay, mình không phải giải thích nhiều. Thật ra có nhiều bậc cao niên rất cần sự giải thích của con cháu, vì họ sẽ rất ngỡ ngàng khi gặp những điều bất thường trong sinh hoạt hàng ngày. Không được giải thích, họ sẽ tưởng con cháu không thương họ hoặc xa lánh họ. Họ cũng rất mỏng manh và nhạy cảm như những em bé.


Mẹ ngủ được một lát rồi bắt đầu rục rịch. An nghĩ có lẽ ánh đèn bên ngoài hắt vào khiến Mẹ khó ngủ. Vậy mình cũng nên tắt đèn đi ngủ thôi! An nằm ở phòng sách, kế phòng Mẹ. Nằm một lát thì chính An bắt đầu rục rịch. Cảm giác gì lạ mà quen quá! À, hóa ra là thấy thiếu thiếu một cái gì. Trước đây, khi chưa có dịch bệnh này, mỗi đêm An thường ôm Mẹ, hôn hai bên má của Mẹ, rồi Mẹ hôn lại. Hai mẹ con chúc nhau ngủ ngon. Nửa đêm, những khi ngủ không được, An thường chạy vào giường Mẹ, chui tọt vào chăn, ôm lấy Mẹ và ngủ được ngay.


An đứng lên, ngần ngại. Nhưng rồi An kéo hộc tủ lấy ra một chiếc mask. An mỉm cười. Cái này được gọi là chiếc “khẩu trang” đây! An mang “khẩu trang” vào, và rón rén đi vào phòng Mẹ. Mẹ nói khẽ:


“Con lại đây!”


“Dạ.”


An ngồi lên giường của Mẹ, cảm thấy khao khát muốn chui vào tấm chăn của Mẹ. Cái mà hai mẹ con đang cần bây giờ là cái ôm thân quen mỗi ngày. Mẹ lấy từ trong chiếc túi ở đầu giường một cái mask khác. Mẹ nói:


“Chờ Mẹ một chút.”


Mẹ mang mask vào, nhanh nhẹn như một cô y tá. Mẹ cười:


“Con thấy Mẹ giỏi không?”


“Mẹ là giỏi nhất!”


An ôm lấy Mẹ, ôm lấy thân hình gầy gò của Mẹ, nhưng hồ như cảm nhận được dòng sữa chảy dạt dào từ thân Mẹ truyền qua cho mình, ấm, rất ấm…



Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Mùa Phục Sinh 2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.