Hôm nay,  

Về Tuyết Sơn

14/04/202008:50:00(Xem: 3868)




 Tiếng niệm chú rì rầm trầm hùng vang rền cả đại điện, bóng các tăng sĩ trong màu áo huyết dụ lắc lư, tay lần tràng hạt trong ánh đèn bơ lung lay trông thành kính vô cùng. Toàn bộ mọi người như nhập thần vào câu chú, thân người ngồi đó mà thần thức như ở cung trời nào chứ chẳng phải trên mặt đất này. Khói trầm phảng phất bay lên, pho tượng Phật trên toà tay bắt ấn kiết tường, mắt mở to như nhìn thấu những tấn tuồng của trò đời, thông suốt những nỗi đau của chúng sanh, biết tường tận tâm can của của mỗi người.

 Mở mắt ra nhìn đồng hồ báo thức ở cạnh bàn, mới ba giờ sáng. Sư Viễn cảm thấy sảng khoái lạ thường bèn dậy sớm hơn thường lệ, ngồi bắt ấn niệm lục tự chơn ngôn. Chỉ chừng giây lát là sư thấy chập chờn lung linh vô vàn hoa trắng bay bay, trông ra như pha lê, laị như sương khói ẩn hiện, lúc thì biến hoá vô số sen trắng ngập trong đất trời. Lòng an lạc lạ lùng, trên gương mặt sư thoáng nụ cười vô hình thể như năm xưa ngài Ca Diếp nhìn đoá sen trên tay Thế Tôn vậy. 

 Đã ba năm rồi, kể từ ngày kết nghĩa với sư Rinpoche ở tu viện Rajahanta. Sư Viễn đã học và phát hiện một cung trời mới lạ của Phật pháp ở thế gian này, một cánh cửa huyền diệu được mở ra với bao nhiêu kỳ bí laị vừa mới mẻ của Phật giáo và văn minh của tuyết sơn. Nền văn minh ấy đang bị phá huỷ và đồng hoá bởi sự tham lam, tàn độc của lũ người ngạo mạn tự xưng mình là cái rốn của vũ trụ. Hàng chục ngàn ngôi chùa bị san bằng, hàng triệu người vừa là tăng sĩ và dân chúng bị giết… Dòng người lần lượt vượt qua núi tuyết đi tìm đất sống. Người ở laị thì oằn mình rên siết dưới sự cai trị tàn độc của bọn người vô minh. Sư Rinpoche từ đất tị nạn ấy được gởi sang thành Ất Lăng này để hoằng pháp và tạo một nhịp cầu với thế giới bên ngoài, hầu có thể đưa ra thế giới tiếng kêu đau thương của đồng loại đang ngày đêm bị bách haị trên tuyết sơn. Sư Viễn quen sư Rinpoche trong một lần tham quan vườn hoa Botanical, ban đầu chỉ chào hỏi xã giao, sau đó nói chuyện về Phật pháp, về chuyện đất nước mình, dân tộc mình… Hai sư cảm thấy tương đắc tâm đồng với nhau, sau buổi ấy hai sư thường viếng thăm chùa của nhau. Qua nhiều lần đàm đạo, dù mới quen nhưng mà cảm thấy thông hiểu nhau như từ lâu, hai sư bèn kết nghĩa huynh đệ. Cái tâm rộng mở, khảng khái, cái nỗi đau của hai dân tộc đã làm cho hai người có cùng tâm sự nên nhanh chóng thông cảm với nhau. Nhân duyên gần là thế, còn căn nguyên sâu xa thì  không biết, vì cả hai cũng chỉ là những ông tăng bình thường mà thôi. Nào ai đã chứng đắc Arahanta đâu mà biết được cội nguồn của tấn bi kịch dân tộc mình. Có lần sư Rinpoche hỏi: 

 - Tôi sẽ về tuyến sơn, đệ có muốn đi một chuyến không? 

 Sư Viễn hoan hỷ nhận lời, sư xin sư phụ và gia đình một ít tiền làm lộ phí, chuyến bay của hãng Delta đưa họ đáp xuống đất nước của những kẻ tham tàn đang bách haị dân tộc sư Ripoche, từ đó mới bắt xe đi lên tuyết sơn. Quá trìnhTừ  xin giấy thông hành cho đến khi đặt chân lên đất Lasha tốn không biết bao nhiêu công sức và phiền toái, những đòi hỏi, hoạnh hoẹ, tra vấn và cả vòi vĩnh nữa. Biết làm sao được? đấy là căn bệnh mãn tính của những nhân viên ở các xứ độc tài, lạc hậu, chậm tiến. 

 Sư Rinpoche tâm sự:

 - Thật buồn cười, mình về nhà mình mà mình phải xin phép kẻ ngoại lai trên đất nước mình!

 Trước khi khởi hành lên tuyết sơn, sư Rinpoche đã mướn trước một bình oxy nhỏ và mang theo một số thuốc cần thiết, vì sư biết sư Viễn sẽ gặp rắc rối về sức khoẻ. Người ở đồng bằng lần đầu lên núi cao ai cũng bị thế cả. Xe lên độ cao hai ngàn mét, không khí lạnh lắm rồi và sư Viễn cảm thấy hơi khó chịu. Xe lên ba ngàn mét, sư viễn bắt đầu hơi khó thở nhưng vẫn còn chịu nổi, lúc này nhìn ra thảo nguyên mênh mông bát ngát lòng sư thấy khoan khoái nên tạm quên cái cảm giác khó chịu kia. Xe nghỉ giữa đường cho mọi người xuống vệ sinh và vận động thân thể một tí cho đỡ mệt mỏi. Khí trời lạnh, ấy thế mà cỏ trên thảo nguyên còn xanh, xa xa có những vạt vàng trông như một tấm thảm kéo dài đến tận chân trời. Bây giờ mới tháng bảy, lúc này là lúc tiết trời đẹp nhất trong năm, từng đàn trâu yark, cừu nhởn nhơ gặm cỏ, thỉnh thoảng mới thấy một túp lều du mục của người Tạng chăn gia súc. Xa xa là những rặng núi tuyết cao ngất trời, tuyết sơn vĩnh cửu trắng  tinh khôi, không biết là mây trời rơi xuống hay tuyết hắt lên hư không. Sư Viễn thấy lòng hoan hỷ vô cùng, dang hai tay quay vòng và hát to bài Chú Đaị Bi bằng tiếng Phạn. Đoạn sư nằm dài trên cỏ như một gã du tử quên rằng mình là một tu sĩ đang khoác cà sa. Sư cao hứng ứng tác:

 Tuyết sơn, tuyến sơn

 Mây trắng nghìn năm rong ruổi

 Mà mỗi mùa qua laị thanh tân

 Trâu yark già

 Lội qua dòng nước lạnh

 Gặm cỏ xanh chẳng thấy bầu trời xanh

 Miền tuyết lãnh

 Vết chân gã du tử chưa kịp in hằn

 Gió đùa ngọn cỏ xoa mất dấu

 Người đâu?

 Ta đâu?

 Đến đi hạt bông cỏ những mùa sau

 Thảo nguyên mênh mông 

 Chẳng ngại câu sắc không

 Xe laị lên đường, chạy bon bon cả buổi không thấy bóng người, thỉnh thoảng gặp một gia đình người Tạng giữa đồng cỏ, người đàn bà vắt sữa, những đứa trẻ chơi đùa với nhau, chúng hồn nhiên sống và lớn lên như cộng cỏ giữa thảo nguyên. Cuộc sống của họ thiếu thốn những tiện nghi vật chất thiết yếu nhất của con ngưởi, thế mà họ vẫn nhẫn naị và lạc quan  yêu đời. Họ thành tâm và cung kính với tam bảo một cách cao độ, có thể nói không có ai cung kính và đặt trọn niềm tin vào Phật pháp như người dân Tạng. Họ lạy Phật, năm vóc gieo sát đất, cứ mỗi bước đi là lại lạy xuống, cung đường có dài bao nhiêu cũng không làm họ nhụt chí. Họ coi cái chết cũng rất nhẹ, cứ tự nhiên như ăn cơm uống nước, chết rồi thì cái thân tứ đaị laị bố thí cho các loài chim . Người Tạng sinh ra, lớn lên và chết đi trên tuyết sơn hết sức hiền lành, mộ đạo chẳng haị ai bao giờ. Ấy vậy mà bọn người tham lam, tàn độc từ dưới đồng bằng kéo lên cướp đất, phá chùa, giết người, hủy hoaị văn hoá của họ…Càng nghĩ sư Viễn càng như gnười mộng du, không còn biết là mình đang ngồi trên chuyến xe này. Lần đầu về tuyết sơn, tâm hồn sư mở rộng ra như chưa từng mở vậy bao giờ. Tuyết sơn vừa hoang sơ, huyền bí laị vừa thiêng liêng biết bao. Sư Viễn thấm mệt nhưng tinh thần rất khoan khoái

 Xe lên một ngọn đồi, nơi ấy có một pho tượng trắng toát cao lồng lộng giữa thảo nguyên xanh, mây trắng trên đầu lơ lửng như ngừng trôi. Một phong cảnh vừa lặng lẽ mà laị hào hùng, vừa lãng mạn mà cô đơn . Mọi người ghé vào tham quan, sư viễn nghe chuyện công chúa Văn Thành từ lâu, giờ mới diện kiến, dù chỉ là một pho tượng. Sư Viễn khâm phục tài nghệ của người nghệ sĩ tạc tượng, pho tượng cứ như một vị công chúa thật của nghìn năm trước. Nàng công chúa Trường An về làm hoàng hậu miền tuyết lãnh. Nàng ra đi chắc không ít lệ đã đổ ra theo mỗi bước đường, một ra đi không bao giờ trở laị, vạn lý đường của ngàn năm trước là cả một cuộc tử sinh. Ban đầu chỉ là cuộc hôn nhân chính trị, sự giao hảo giữa nhà Đường và Tùng Tán Cán Bố, nhưng dần dần đã thành tình yêu. Trai tài gái sắc là lẽ thường xưa nay. Sư Viễn ngắm pho tượng mà thì thầm:” đẹp quá, sống động quá! cứ ngỡ xiêm y của nàng phơ phất trắng thảo nguyên này!”. Sau khi đi quanh pho tượng và viếng ngôi đền tưởng niệm, sư Viễn ngồi xếp bằng trên cỏ xanh, lòng laị nhớ sử cũ Huyền Trân công chúa về làm hoàng hậu xứ Champa. Ngọc Hân công chúa về làm hoàng hậu nhà Tây Sơn. Hai nàng công chúa Đaị Việt xem ra bất hạnh hơn Văn Thành công chúa của Đường triều. Mặc dù bọn họ đều là những cuộc hôn nhân chính trị, là những nạn nhân của quyền lực và lợi ích của triều đình, cho dù sau đó có nảy sinh tình yêu vì cái lẽ trai tài gái sắc vốn rất thường tình. Sư Viễn cảm thương cái khổ của kiếp người, nhất là phụ nữ. Họ phải mang nặng đẻ đau, quần quật làm lụng, vun vén cho gia đình, lo cho chồng con… Nếu họ có phước, sinh ra có sắc đẹp thì sẽ trở thành đồ vật để mặc cả đổi đất, giao kết chính trị… dù có dùng cái mỹ từ nào đi nữa thì số phận họ cũng khổ đau. Văn Thành, công chúa của Đường triều về làm hoàng hậu miền tuyết lãnh, một đi không trở laị bao giờ! 

 Xe lên bốn ngàn  mét thì sư Viễn choáng, không thở nổi, áp suất loãng, đầu nặng muốn chúc xuống mà chân như ngược lên. Bấy giờ sư Rinpoche mở bình oxy cho thở:

 - Người đồng bằng lần đầu lên cao ai cũng thế, từ từ sẽ quen thôi! 

 Bữa ăn chiều dọn ra có khoai tây, ít rau, thịt hun khói, sữa trâu yark. Sư Viễn còn mệt nên chỉ ăn qua loa chút ít khoai tây rồi thôi. Sư Rinpoche bảo:

 - Ta biết đệ không ăn thịt đã hai mươi lăm năm nay, nhưng giờ phải ăn một chút để lấy sức đi cho trọn hành trình này. 

 Sư Viễn cầm miếng thịt hun khói lên, dù biết nó là tam tịnh nhục nhưng lập tức trước mắt sư hiện ra cảnh tượng con trâu yark bị cắt cổ, đập đầu tiếng nó rống thảm thiết, ánh mắt nó van lơn chảy nước mắt… sư Viễn bèn bỏ xuống.

 Sư Rinpoche laị nói:

 - Miếng thịt hun khói này đã nhiều năm rồi, nếu ở điều kiện bình thường thì nó hoá đất từ lâu. Giờ đệ hãy xem nó như miếng gỗ, cục đất vậy! 

 Sư Viễn laị cầm miếng thịt lên toan cắn, lập tức cảnh xẻ thịt con trâu yark laị hiện ra, đầu con trâu yark cắt lìa khỏi thân rồi mà đôi mắt nó còn mở thao láo, trông tha thiết van lơn lắm. Sư Viễn buông xuống

 - Đệ hơi mệt, vả laị cũng không đói, để hôm sau vậy! 

 Sư Rinpoche bảo:

 - Ở đây khí hậu vô cùng khắc nghiệt, không cây cối nào sống nổi, rau quả chỉ có vào tháng hè, nếu không ăn thịt thì sẽ chết. Trâu yark cho thịt, sữa và da để mọi người tồn taị, ngay cả đèn cúng dường cũng bằng sữa của nó, nếu không có trâu yark chắc chẳng ai sống nổi! ăn thịt cũng là bất đắc dĩ, bằng không sẽ chết trước khi việc học đạo hoàn thành. 

 Tối hôm ấy sư Viễn tham dự tụng kinh chung với toàn bộ các sư trong tu viện Tenzin Mandala. Mấy trăm người rì rầm tụng, tiếng Tạng trầm hùng như có sức lay động tận tâm can con người, tiếng tụng rền cả đaị điện, lời kinh bay lên xao động cả ngân hà. Sư Viễn  biết chút chút tiếng Tạng, chỉ mới thuộc Tâm Kinh và chú Đaị Bi bằng tiếng Phạn. Sư thì thầm tụng lục tự chơn ngôn Om Mani Pad Me Hum, đến khi các sư tụng đến Tâm Kinh thì sư Viễn mới hoà nhịp kịp. Buổi lễ tan, nhìn lên thấy tượng Tùng Tán Cán Bố được thờ như một vị bồ tát. Pho tượng rất oai phong uy vũ, hai mắt mở to nhìn xuyên tâm kẻ đối diện, tà ma nhìn thấy ắt thất kinh. Sư Viễn chợt nghĩ:” Tùng Tán Cán Bố là vua, là hộ pháp hay bồ tát đây?” phải chăng đôi mắt mở to thấy rõ đâu là trung thần, gian nịnh để mà cai trị quốc gia? phải chăng đôi mắt mở to của hộ pháp để mà thấy rõ đâu tà, đâu chánh để mà tồi tà phụ chánh? phải chăng đôi mắt mở to của bồ tát để nhìn tường tận nỗi đau của kiếp người, của chúng sanh? 

 Đêm ấy sư Viễn ngủ laị ở một căn phòng vắng của tu viện, nửa đêm mơ màng thấy một vị hộ pháp hỏi:” Phải chăng sư định phá giới, ăn thịt?” còn đang ngơ ngác thì một vị hộ pháp khác lại đến:” Phải chăng sư định không ăn thịt, để rồi kiệt sức và vĩnh viễn nằm laị tuyết sơn?”. Sư Viễn choàng tỉnh dậy, đêm Tây Tạng im lặng đến tận cùng. Từ miền đất cao nhất của cõi nhân gian này, những âm thanh của đời thường rất hiếm khi có, tất cả lặng lẽ, tịch mịch đến độ nghe rõ mồm một tiếng lòng sâu thẳm trong tâm mình. Cái im lặng của đất trời, của tuyết sơn, của thảo nguyên; cái im lặng của những pho tượng nghìn năm mở to đôi mắt nhìn nhơn gian biến động sao mà hùng tráng đến như vậy! 

 Bốn giờ sáng sư Viễn dậy cầu kinh cùng các sư trong tu viện, sau khoá lễ thì kinh hành quanh tu viện. Sư thấy từng tốp người Tạng hướng về tu viện mà lạy, họ lạy dài xuống đất, cả thân thể nằm sát đất, cứ từng bước là laị lạy xuống. Họ xuất phát từ các hướng khác nhau, quãng đường xa gần khác nhau nhưng tất cả hướng về tu viện mà lạy, lòng thành kính lay cả động đất trời. 

 Mấy hôm sau sư Rinpoche dẫn sư Viễn lên viếng cung Potola, một cung điện mà cũng là một tu viện, dù đã thấy qua phim, ảnh nhưng sư Viễn vẫn sững sờ trước một Potola vĩ đaị, quá to lớn, quá đồ sộ, vượt qua sự tưởng tượng của mình. Từ ngàn xưa, người Tạng với hai bàn tay không mà họ dựng được Potola cũng như hàng ngàn ngôi tự viện vô cùng đồ sộ như thế! Sống trên tuyết sơn khắc nghiệt vậy mà người Tạng đã có một nền văn minh Phật giáo kiệt xuất, khiến người ta phải tâm phục khẩu phục! Những công trình kiến trúc, những tranh, tượng, điêu khắc, kinh sách… đều tuyệt vời. Sư Viễn bước từng bước , lấy tay sờ vách tường mà cứ ngỡ mình đang ngược dòng thời gian trở về những thế kỷ xa xưa. Bên ngoài Potola, người Tạng từ bốn phương hướng về mà lễ lạy. Họ từ các vùng xa xôi hành hương về đây để lễ Phật và âm thầm tưởng nhớ đến ngài Dalai Lama, mỗi bước chân là lạy dài phủ phục xuống đất. Trên thế gian này không có nơi nào mà con người thành tâm, cung kính đến như thế. Mặc dù họ sống trong thiếu thốn vật chất, bị cai trị tàn bạo nhưng họ vẫn kham nhẫn và hết lòng cung kính tam bảo. 

 Tuần sau, khi những triệu chứng khó thở vì không khí loãng đã giảm bớt, không còn choáng váng nữa. Sư Rinpoche dẫn sư Viễn đi hành hương núi Kalas, ngọn núi cao tưởng chạm trời xanh, từng nhóm người Tạng mang theo thực phẩm, nước uống để hành hương quanh ngọn núi thiêng này. Tấm lòng mộ đạo, chơn chất, thuần khiết của họ khiến sư Viễn không ngớt cảm phục. Thỉnh thoảng sư thấy những bộ tóc, lóng xương của người chết trên đường đi. Sư thêm thấm thía sự vô thường là như thế nào và càng dễ buông bỏ cái tấm thân tứ đaị này, việc này cũng giống như phép quán tử thi mà Thế Tôn đã dạy. 

 Hôm sau tu viện Tenzin Mandala diễn ra thảo kinh đơn, các giáo thọ và các sư trẻ lần lượt tra vấn hỏi đáp lẫn nhau. Sân tư viện giống như một cuộc thi đình ngày xưa, các vấn đề giáo lý, kinh, luật, luận đều bàn luận đến độ như cãi cọ vậy. các sư dùng lời, cử chỉ, hành động tay, chân và toàn thân. Nếu một người chưa từng biết đến Phật giáo Tây tạng thì có lẽ sẽ ngứa mắt vì thấy sao mà lộn xộn, không trang nghiêm, không có oai nghi như các sư dưới đồng bằng. Cuộc vấn đáp keó dài lê thê, từng vấn đề được truy đến căn nguyên gốc rễ, cứ như người lột bẹ chuối, lột đến khi không còn lột được nữa mới thôi. Sư Viễn không hiểu nổi, sư Rinpoche phải thông dịch hộ cho.

 Những ngày trên tuyết sơn, sư Viễn có cảm giác mình lạc vào một vùng đất lạ lùng không phải của thế gian này. Một nguồn cội đông phương vô cùng huyền bí và thiêng liêng. Lòng sư mến mộ và khâm phục tinh thần của người Tạng, sống với băng tuyết, sống dưới sự cai trị tàn độc của ngoaị xâm mà họ vẫn kham nhẫm và cung kính tam bảo đến như vậy. Có một vị sư Tây Tạng, sau khi ra khỏi nhà tù và vượt thoát sang Ấn Độ, ngài đã nói với vị Phật sống rằng:” Dù bị tra tấn tàn bạo nhưng cái con sợ nhất là không giữ được lòng từ bi với chính kẻ bách haị mình” 

 Đây quả là hành trạng của bồ tát, tâm của bồ tát, người thường làm sao mà làm nổi được việc này! Các vị sư Tây Tạng đã tự thiêu thân mình để thức tỉnh kẻ thủ ác chứ nhất định không làm haị đến họ. Người Tạng đang sống và đang hành như vậy! 

 Đêm cuối cùng trên tuyết sơn, trước khi về laị Ất Lăng thành. Sư Viễn cùng với các sư trong tu viện ngồi niệm Om Ma Ni Pad Me Hum. Tượng đaị nhật Phật mở to mắt nhìn sư, tượng hộ pháp mở to mắt nhìn sư, tượng Tùng Tán Cán Bố cũng mở to mắt nhìn sư. Đèn tuyết sơn lung linh qua đĩa sữa trâu yark.  Bóng các sư lắc lư trong tiếng niệm trầm hùng.


TIỂU LỤC THẦN PHONG 

Ất Lăng thành, 12/2019

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.