Hôm nay,  

Về Lại Dòng Sông

05/06/202013:45:00(Xem: 4380)

Xe đò vừa vào Phan Rang thì kỷ niệm cũng vừa tràn về thốc tháo trong lòng bà, như làn gió nóng của miền Trung nắng cháy đang lùa vào các khung cửa xe một cách hăm hở. Bà gỡ đôi kính mát xuống để nhìn hai bên đường cho rõ hơn. Phan Rang. Con đường Thống Nhất. Bốn mươi năm. Nhưng bà ngạc nhiên vì thấy mình không đến nỗi lạc lõng sau những năm tháng dài như thế. So với nhiều thành phố khác, Phan Rang dường như không thay đổi gì mấy. Rõ ràng là con đường cũng như mấy thập kỷ qua, không được mở rộng ra chút nào. Từng hàng cây cổ thụ dễ đến trăm năm vẫn còn lác đác chạy dài theo hè phố. Nhà cửa có lô nhô nhiều căn cao hơn trước, nhưng chưa đủ để thành phố có một khuôn mặt khác lạ đối với người lữ khách lâu ngày vừa trở lại. 

Bà không còn nhớ nhà Khanh ở khúc nào. Nhớ sao được, khi thời gian đã chập chùng chồng lên nhau, chồng lên ký ức, chồng lên cảm xúc, chồng lên biết bao nhiêu cảnh vật, chồng lên biết bao nhiều con người ẩn hiện trước sau trong những đoạn đời khác nhau. Nhưng có một điều bà còn nhớ rất rõ. Đó là hình ảnh bà và Thuỷ Trúc ngại ngùng đứng trước nhà Khanh, một căn phố mặt tiền bày bán những mặt hàng tạp hoá. Bà còn nhớ cảm giác buồn buồn lúc đó, khi nắng trưa đang dần thẫm màu trên con phố ngái ngủ của đường Thống Nhất. Khanh rất ngạc nhiên khi thấy hai cô bạn cùng lớp đứng thập thò trước cửa. Thuỷ Trúc nhanh miệng chào Khanh trước và vào đề ngay:

  • Tụi này mới đi thăm Vũ ở Phước Thiện về. Đi xe ôm hai vòng hết cả tiền. Cảm phiền Khanh cho tụi này mượn một ít mua vé xe lửa về lại Nha Trang.

Bà cũng nhớ là vì Thuỷ Trúc đã nói hết những điều khó nói rồi, lúc ấy bà chỉ biết nở một nụ cười gượng gạo với Khanh như để thầm phụ hoạ với bạn. Khanh cũng biết tình cảnh đó khá tế nhị nên vồn vã mời hai cô vào uống nước, ân cần hỏi thăm về những ngày hè vừa qua của hai cô ở Nha Trang, và không quên giúi nhanh vào tay Trúc mấy tờ giấy bạc còn nguyên nếp gấp.

Không biết bây giờ Khanh còn ở đây hay không, làm gì, vợ con ra sao. Bà nghe mình thở dài thật nhẹ, hai mắt thoáng cay cay. Chiếc xe đò rời đường Thống Nhất, rẽ trái, đi thêm một đoạn rồi từ từ đỗ vào bến xe. Bây giờ cũng là buổi xế trưa như mấy mươi năm trước. Cũng là trời đất Phan Rang. Nắng vẫn còn một màu vàng như mật ong như ngày nào. Thuỷ Trúc bây giờ đã vĩnh viễn nằm trong lòng đất ở một nơi xa nơi đây lăng lắc, một thành phố nhỏ ở tiểu bang Florida. Bà đang quay lại chốn cũ. Bà đón chuyến xe khách cuối cùng trong ngày về Phước Thiện để gặp lại Vũ. Giờ này chắc ông cũng đang trông bà lắm đây.

Ngày trước, bà có hẹn lòng là sẽ tìm gặp lại Vũ khi tự thấy tình cảm của mình đã hoàn toàn nguội lạnh. Thật ra, chuyện đó xảy ra nhanh hơn bà tưởng. Thuở ấy, bà tự cho mình năm năm để quên Vũ, nhưng mới một năm sau, tình yêu của Hồ đã làm bà quên Vũ đi thật chóng vánh. Không có liều thuốc nào chữa căn bệnh tình yêu hiệu nghiệm bằng một tình yêu khác. Đến khi nhận được lá thư của Vũ gởi đi từ Việt Nam sau nhiều năm không liên lạc, bà đang ở California, mới bắt đầu bước vào tuổi bốn mươi. Bà lạnh lùng nhìn dòng chữ nắn nót quen thuộc của Vũ từ thời còn đi học. Lúc đọc thư, một lần nữa bà thấy rõ trong lòng mình không còn mảy may sót lại một chút cảm xúc nào. Lúc ấy, bà bỗng mỉm cười một mình với ý nghĩ rằng giá mấy mươi năm trước mình được diễm phúc đọc những dòng chữ của Vũ như thế này thì tuổi mới lớn của bà chắc đã vui thêm biết mấy! Sau đó ít lâu, Vũ và bà hẹn nhau ngày giờ để nói chuyện qua điện thoại viễn liên. Thời đó Internet ở Việt Nam còn hiếm hoi, Vũ phải chạy ra một quán café internet để gọi cho bà. Đường dây không nhạy, mỗi lần ai nói một câu xong phải đợi thật lâu người bên đầu dây kia mới trả lời. Chẳng khác gì một cuộc đối thoại từ hai thế giới khác nhau. Câu chuyện hai bên trao đổi thật lạt lẽo, bà nói như người không hồn, chỉ mong mau kết thúc cuộc điện đàm. Cúp máy xuống, bà bùi ngùi tiếc nhớ những cảm xúc bồng bột nhưng cũng thật nồng nàn thời thanh xuân, giờ không tìm đâu thấy nữa.

Nhưng năm tháng rồi cũng có thể đổi thay những suy nghĩ, những tình cảm sâu kín trong lòng. Cuộc sống của bà khép lại sau cuộc ly dị với người chồng trong một cuộc hôn nhân không tình yêu, không con cái. Bà lao vào những hoạt động từ thiện trong cộng đồng địa phương để bớt đi những giờ phút trống trải. Đây là lần đầu bà trở về Việt Nam, theo chân một nhóm bác sĩ chữa mắt miễn phí cho trẻ em trong các viện mồ côi ở phía Nam. Ở Sài Gòn, bà tình cờ gặp lại Vương, một bạn học cũ của bà và Vũ. Quê của Vương ở Hộ Diêm, không xa Phước Thiện của Vũ là mấy. Khi bà hỏi thăm về Vũ, Vương cho biết là Vũ vẫn khoẻ, nhưng vợ Vũ là Ái mới mất vài năm nay. Lúc chia tay, Vương cho bà số điện thoại của Vũ. 

Buổi tối hôm ấy, sau khi làm việc với nhóm bác sĩ ở một viện mồ côi ở Gò Vấp, bà trở lại khách sạn với một tâm trạng bồi hồi khó tả. Sau bữa cơm chiều ăn vội vàng, bà ngồi thẫn thờ trên chiếc sofa cạnh cái cửa sổ kính, nhìn xuống thành phố đã lấp loáng lên đèn. Xe cộ như mắc cửi ngược xuôi qua lại. Không dưng bà thấy thật lạc lõng và cô đơn trong căn phòng máy lạnh đang chạy vù vù. Trong cả nước Việt Nam mênh mông này, lần đầu tiên bà mới cảm nhận được sự cô độc của mình. Bà không còn gia đình hay bà con thân thuộc gì ở đây nữa. Bạn bè ngày xưa mỗi người một ngả. Như một phản xạ, bà với tay lấy chiếc điện thoại, tìm số của Vũ để bấm vội bấm vàng dãy số dài.

Và đó là lý do bây giờ bà đang ngồi trên chiếc xe khách nhỏ, cùng với những hành khách dường như đã mệt nhoài sau một ngày dài nóng bức. Từ Phan Rang đến Phước Thiện, bây giờ người ta có thể đi lại thuận tiện hơn trên đường tráng nhựa. Ngày xưa, bà và Thuỷ Trúc, hai cô gái mới lớn, đã thật là liều lĩnh khi ngồi sau lưng một người đàn ông xa lạ đi xe ôm từ ga Tháp Chàm về thôn Phước Thiện. Bà nhắm mắt lại, cố hình dung ra hình cảnh vừa buồn cười, vừa tội nghiệp đó. Hồi đó chiếc xe gắn máy chở hai cô gái trên đường đất, chỗ lồi, chỗ lõm, chỗ chênh vênh, hai bên gần như là đồng không mông quạnh. Bây giờ, chạy dọc theo con lộ là nhà cửa san sát, hàng quán hết cái nọ tới cái kia. Bà chợt cảm thấy xa lạ trong chiếc xe ngột ngạt, trong cảnh vật hai bên đường, mặc dù bà hiểu hết ngôn ngữ lao xao của những người chung quanh mình.

Chiếc xe uể oải đậu lại ở đầu thôn khi những tia nắng cuối cùng cũng vừa buông xuống. Nhiều đứa trẻ trần trùng trục đang đá banh trên khoảng đất trống còn lại, cạnh một vài chiếc xe khác như đang thiu thiu ngủ trong nắng quái chiều hôm. Hành khách lục tục bước xuống. Vũ nhác thấy bà vừa xuống xe. Ông vội vàng đi tới, thốt lên:

  • Thuỳ Linh!

Bà nhớn nhác nhìn ông, rồi cũng khẽ nói như reo:

  • Anh Vũ!

Vũ mau mắn đỡ lấy cái túi xách trên tay bà. Ông chỉ về phía trước:

  • Xe tôi đậu đằng kia. Từ đây về nhà  đi bộ cũng hơi xa.

Xe của Vũ là một chiếc gắn máy cũ kỹ hiệu Honda. Bà vừa đi vừa mỉm cười bảo Vũ:

  • Ngày xưa Thuỷ Trúc và tôi đi xe ôm đến thăm anh. Bây giờ anh lại làm tài xế xe ôm cho tôi.

Vũ nheo mắt:

  • Chuyện gì cũng có thể xảy ra được há. Thuỳ Linh đi xe có mệt không?

Bà lắc đầu:

  • Không mệt bằng chuyến xe từ Sài Gòn ra Phan Rang đâu anh.

Vũ cột cái túi xách của bà vào yên sau xe, chừa một chỗ vừa vặn cho bà ngồi. Chiếc xe phóng đi, để lại một làn bụi mỏng phía sau. Trời nhá nhem tối, bắt đầu có những làn gió mát như để bù đắp lại một ngày oi bức của quê hương gió cát. Bà vòng tay ôm eo Vũ, nhưng chỉ giữ hờ, lỏng lẻo chứ không dám ôm chặt. Mùi đồng ruộng và mồ hôi toát ra từ chiếc áo khaki sờn rách trên người Vũ. Chợt bà lại có cái ước ao đầy tiếc nuối như cảm giác lúc đọc lá thư của Vũ, rằng giá như ngày xưa bà có dịp tựa đầu vào tấm lưng trai tráng của Vũ trong những ngày tình yêu đang là trái đắng...

Xe chỉ chạy một thoáng là đến nhà Vũ. Vẫn là căn nhà của bao nhiêu năm về trước, khi Thuỷ Trúc và bà bỡ ngỡ bước vào. Căn nhà tăm tối, ánh sáng của hai chiếc néon không đủ xua tan vẻ ảm đạm, u trầm đang bao phủ khắp nhà. Mùi ẩm mốc hăng hăng bay vào mũi bà. Bà nhìn quanh quất. Không có ai trong nhà ngoài chủ nhân của nó. Bà có cảm tưởng thời gian đã quên ghé qua căn nhà câm lặng này trong ngần ấy năm trời. Tưởng như ngày xưa lúc bà đến là một cô gái, nay bà trở lại là một phụ nữ đứng tuổi, không có gì xảy ra trong đó cả.

Vũ đặt cái túi xách của bà xuống một chiếc ghế, kéo tay bà đến gian phòng thờ ngay giữa nhà, chỉ cho bà xem một bức ảnh bên cạnh những bức đã cũ hơn:

  • Hình của Ái đó. Ái mất cũng ngót nghét ba năm rồi.

Bà hỏi xin Vũ một cây nhang. Vũ giúp bà mồi lửa. Bà chắp hai tay lại, nâng cây nhang lên ngang vầng trán, lâm râm khấn vái, thầm xin phép bà chủ nhà đến thăm gia đình. Cắm cây nhang vào bát nhang xong, bà quay lại nói với Vũ:

  • Xin chia buồn cùng anh nhé. Chắc anh không nhớ đâu, nhưng tôi vẫn còn nhớ như in ngày anh đưa tôi và Thuỷ Trúc qua thăm Ái, lúc hai ông bà sắp lấy nhau.

Vũ nhìn bà đăm đăm:

  • Linh nhớ gì?

Bà nhìn thẳng vào bức chân dung của Ái. Đôi mắt của người chết trong ảnh lúc nào cũng như thật có hồn, luôn luôn hướng về người đang nhìn ảnh, dù người đó đang đứng chỗ nào đi nữa. Bà nói như đang trong giấc mơ:

  • Tôi nhớ Ái thật dịu dàng, có phần nhút nhát nữa. Ái xưng hô với tôi và Thuỷ Trúc rất trịnh trọng. Tôi còn nhớ là ngay lúc đó, Ái đang nghe một bài nhạc Pháp trong máy cassette mà tôi rất thích.

Vũ hỏi, giọng cũng như đang mê ngủ:

  • Linh còn nhớ bài đó là bài gì không?

Bà say sưa đáp:

  • Làm sao tôi quên được. Bài đó là bài « Ensemble » do Art Sullivan hát. Bài hát đó trở thành một ám ảnh của tôi, cùng với bài  « Une belle histoire » của Michel Fugain.

Bà quay lại nhìn Vũ :

  • Ở bên Mỹ, lâu lâu có dịp nghe lại một trong hai bài này, lúc nào tôi cũng nghĩ đến những ngày chúng ta còn đi học với nhau.

Vũ nhìn lại bà, rồi nhìn chân dung vợ trên bàn thờ :

  • Tôi cũng thích hai bài này lắm. Chính tôi đã tặng cho Ái băng cassette đó. Tôi biết là hôm ấy Ái cố tình để nhạc lúc Linh và Trúc ghé chơi.

Đoạn Vũ nhắc bà :

  • Linh vào trong rửa mặt cho khoẻ. Tôi dọn cơm ra ăn nhé.

Lúc bà trở ra, khoẻ khoắn trong bộ pyjama màu hồng, Vũ đã ngồi đợi sẵn bên mâm cơm đạm bạc : một dĩa rau muống luộc, hai khứa cá kho và một tô canh bí với tôm khô, lỏng bỏng nước nhiều hơn cái. Vũ mời bà cầm đũa :

  • Ở Mỹ lâu năm về, hy vọng Linh đừng chê cơm nhà quê nhé !

Bà nhìn Vũ :

  • Nãy giờ tôi chưa hỏi thăm con cháu anh thế nào.

Vũ vừa xới cơm vào chén cho bà, vừa đáp :

  • À, hai thằng con trai của tôi ở cũng gần đây thôi. Thằng lớn có ba đứa con, thằng nhỏ hai đứa. Con gái út của tôi ở Sài Gòn, mới lấy chồng năm ngoái.

Bà cười nhẹ :

  • Vậy anh là ông nội của năm đứa cháu lận !

Vũ nheo mắt :

  • Ông nội này bây giờ ốm o gầy mòn,  không còn là «gấu bông» như cô Thuỳ Linh ngày xưa vẫn thường gọi đùa nữa đâu !

Sau bữa ăn, mọi việc diễn ra gần giống như mấy mươi năm trước, giống một cách dị thường. Cũng là một đêm có trăng, Vũ và bà cũng ngồi trên bậc thềm trước nhà. Chỉ thiếu Thuỷ Trúc. Bà ngậm ngùi kể lại cho Vũ nghe vì sao Thuỷ Trúc chết. Khi đêm sâu lắng hơn, cả hai không nói gì thêm nữa. Trăng đã lên thật cao. Vũ đưa bà vào chiếc giường mà ngày xưa bà đã ngủ lại, cùng với Thuỷ Trúc. Bà lại nằm thao thức trong bóng đêm, như ngày xưa đã từng thao thức. Rồi bà chợt tự hỏi : « Tại sao ta lại trở về nơi đây ? Một nơi ta đã về và đã trốn chạy như trốn cái bóng của chính mình ? » Bà nằm miên man mãi như thế rồi mới chợp mắt được một chút khi tiếng gà trong thôn đã bắt đầu eo óc gáy.

Khi bà mở choàng mắt, ánh nắng đã vào sâu trong gian phòng ẩm thấp. Bà nằm lặng đi một chút mới định thần biết mình đang ở đâu. Lần này bà đang thật sự ở Việt Nam, không như bao nhiêu giấc mơ trước bà thấy mình về lại quê nhà, tưởng là thật rồi cuối cùng tỉnh dậy cũng chỉ là một giấc mơ. Vũ đi ngang qua phòng, đứng lại ở ngưỡng cửa, nói vọng vào :

  • Thuỳ Linh dậy chưa ? Sửa soạn rồi mình đi ăn sáng nhé.

Khoảng mười lăm phút sau, Vũ và bà tản bộ trên con đường chính trong thôn. Buổi sáng ở thôn quê khá êm ả, một vài người đi ngang tò mò nhìn người đàn bà ăn mặc khác với những cô gái quê cần mẫn, làm lụng suốt ngày. Vũ đưa bà đến một quán nhỏ ở giữa thôn, gọi cho hai người bữa sáng. Một cô bé loắt choắt mang đến cho hai người cà-phê và hai dĩa trứng ốp-la kèm hai ổ bánh mì nóng hổi. Bà thích thú ngắm nghía cái phin cà-phê mà lâu rồi bà không nhìn thấy. Vị cà-phê nồng nàn làm bà tỉnh táo hẳn. Vừa ăn, bà vừa hỏi thăm Vũ thêm về các con cháu của Vũ. Vũ cũng hỏi lại về gia cảnh của bà. Bà vừa trả lời vừa nghịch những vụn bánh mì trên tay :

  • Không biết phải nói là hên hay xui, nhưng tôi đã gặp vài người đàn ông, mà rốt cuộc cũng chẳng trọn vẹn với ai. Tôi sống một mình ở bên Mỹ, không con cái gì hết.

Câu trả lời của bà khiến không khí trở nên nặng nề một chút. Khi hai người đã  uống hết cà-phê, Vũ đứng dậy bảo :

  • Bây giờ tôi đưa Linh đi một vòng thăm thú xem Phước Thiện ngày nay khác với hồi xưa Linh về chơi thế nào nhé.

Hai người đi một quãng xa mới đến một vườn cây rậm rạp, sum sê những trái đủ màu, vàng có, cam có, đỏ có. Vũ chỉ vào những lùm cây xanh mướt, nói với bà :

  • Sắp đến mùa thu hoạch hạt điều rồi đó Linh. Hồi giờ Linh đã thấy trái đào lộn hột chưa ?

Bà cười nhẹ :

  • Có, anh ạ. Ngày xưa tôi tưởng hột điều và trái đào lộn hột là hai thứ không ăn nhập gì đến nhau cả.

Vũ nói, giọng đều đều :

  • Bao nhiêu năm nay, nhà tôi phải thay đổi canh tác theo xu hướng của thị trường. Ngày trước tôi trồng thuốc lá, lúc Linh với Trúc về đó. Sau tôi đổi qua trồng nho một thời gian. Bây giờ hột điều là mặt hàng xuất cảng phổ biến nên tôi chuyển qua loại này từ mấy năm nay.

Ông khẽ thở dài, nói tiếp :

  • Tôi cũng sắp giao lại mảnh đất này cho hai cháu, để cho tụi nó lo. Lâu nay làm lụng như vậy cũng đủ rồi.

Bà làm thinh nghe Vũ nói. Bà như say nhè nhẹ trong bầu không khí thinh lặng, bàng bạc mùi hương của cây trái, lẫn với mùi nồng nồng của đất. Cả hai quay trở lại, đi ngang ngôi nhà thờ cổ kính trong thôn. Bà chợ nhớ lại ngày xưa, bà hay theo Thuỷ Trúc đi nhà thờ chỉ vì... Vũ. Vũ lúc ấy là một chủng sinh tại một chủng viện phải giải tán vì chính quyền cộng sản địa phương thời đó không mặn mà gì với một cơ sở như vậy. Bà vừa ngó về phía nhà thờ, vừa nói với Vũ :

  • Chắc anh Vũ không ngờ ngày xưa tôi hay đi nhà thờ với Thuỷ Trúc mặc dù không không có đạo.

Đoạn bà cười to trước khi nói :

  • Bây giờ tụi mình già hết rồi, tôi mới có thể thú thật với anh. Ngày xưa tôi yêu anh lắm. Anh là mối tình đầu của tôi. Nói một cách sến sủa, đó là một mối tình đơn phương !

Vũ cười tủm tỉm :

  • Tôi biết chứ.

Bà nghe như tim mình mới thoát khỏi một sợi dây vô hình buộc vào một tảng đá nặng mấy chục năm trời. Bà miên man nói tiếp :

  • Tôi có hai điều muốn hỏi anh về ngày xưa, lúc tụi mình còn đi học chung lớp ở Nha Trang. Anh còn nhớ lúc đó mình chơi với nhau khá thân, phải không ? Vậy mà hôm đi lao động ở Suối Dầu, tại sao có bữa anh đột ngột giận tôi không duyên cớ gì hết vậy ? Cho đến mấy tuần sau luôn. Thế rồi, điều thứ hai tôi muốn hỏi anh, tại sao ngay trong bữa liên hoan trong lớp trước khi mọi người nghỉ hè, anh lại mang một dĩa bánh ngọt đến cho tôi để làm hoà và nói lời xin lỗi tôi ? Hai câu hỏi này ám ảnh tôi bao nhiêu năm trời nay, anh có biết không ?

Vũ tránh không nhìn bà, vẫn hướng mắt về phía trước, hắng giọng mấy cái rồi mới đáp:

  • Thuỳ Linh à, tôi không ngờ hôm nay tôi lại có dịp bộc bạch về những điều khi chúng ta còn là con nít như ngày xưa đó. Linh cũng biết là sau năm học đó, tôi về nhà cưới Ái làm vợ. Ở nhà quê này chuyện lấy vợ lấy chồng khi chưa tròn đôi mươi là chuyện thường tình. Ái và tôi chơi với nhau từ khi còn thò lò mũi xanh. Hai gia đình coi như chuyện chúng tôi lớn lên, trở thành vợ chồng là điều cố nhiên. Nếu như Linh vừa thố lộ là ngày xưa Linh có yêu tôi, thì tôi cũng phải thú thật rằng hồi đó tôi cũng có cảm tình rất nhiều với Linh. Tình cảm đó có lên tới mức tình yêu chưa thì tôi không chắc, nhưng nhất định nó đã vượt qua tình bạn bình thường. Linh còn nhớ cái đêm ở Suối Dầu, khi mọi người kéo nhau đi qua xã bên cạnh coi phim, chỉ có mình tôi và Linh ở lại trại để nói chuyện với nhau không ? Sau đêm đó tôi thấy lòng mình thật xao xuyến, và tôi cảm thấy có lỗi thật nhiều với Ái khi để trái tim mình đi lạc như vậy. Tôi đã cố giải quyết sự giằng xé đó bằng cách hết sức trẻ con là làm mặt giận với Linh, để hai bên khỏi có cơ hội nào mà gần gũi với nhau nữa.

Bà nghe mắt mình cay cay và giọng mình nói với Vũ như một lời kêu thương :

  • Anh ác lắm, anh biết không ? Cái ác độc của anh vẫn còn làm tôi đau ngay trong giây phút này. Nỗi đau mà tôi tưởng đã quên mất từ lâu. Nhưng tại sao anh lại làm hoà với tôi chứ ?

Vũ quay qua nhìn bà :

  • Bộ Linh tưởng tôi sung sướng lắm khi phải giả vờ giận Linh sao ? Chính vì bị giày vò với việc đó mà tôi nghĩ phải xin lỗi Linh, cho dù tôi biết sau hôm đó có thể chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nữa. Ít nhất giữa chúng ta còn có được một kết thúc đẹp, còn hơn là chia tay một cách khó chịu như vậy.

Bà đưa tay lên ngăn một giọt nước mắt sắp lăn xuống má, cố phá lên cười một cách gượng gạo :

  • Anh Vũ nè, giá bây giờ mà có đứa cháu nội nào của anh nghe được câu chuyện của hai ông bà già mình, chắc nó tưởng đang coi phim « Luỵ Tình Chưa Dứt » quá !

Vũ cũng cười theo. Mặt ông nhăn nheo, da đen sạm vì thời gian, mưa nắng. Bà thầm nghĩ, còn đâu chú Gấu Bông trắng trẻo, tròn trịa, thư sinh ngày xưa đã làm mình một thời điên đảo. Vũ nhìn lại bà. Thuỳ Linh còn đẹp lắm, nhưng bây giờ xa cách với ông làm sao, tuy đang đi sánh đôi với mình. Ông giấu tiếng thở dài, không biết nói gì hơn. Bà bỗng nói :

  • Ô, anh Vũ đưa tôi ra thăm lại dòng sông một chút nhé.

Vũ nhếch miệng cười :

  • Dòng sông bây giờ khác lắm rồi. Linh ra xem sẽ rõ.

Hai người đi đến một dãy hàng quán nằm chắn ngang trước mặt, Vũ nhìn bà nói:

-     Dòng sông nằm sau dãy nhà này đó Linh.

Bà đưa hai tay lên ôm ngực. Trời đất, ngày trước, bờ sông rộng thênh thang, thoáng đãng. Bà còn nhớ cùng Thuỷ Trúc lững thững đi dọc ven bờ, nhìn bọn trẻ chơi đùa, hay những cô gái ngồi giặt bên sông. Bây giờ, bà và Vũ phải len lách qua một lối đi chật hẹp giữa hai quán ăn, mặt đất lầy lội, bẩn thỉu. Dòng sông buồn bã hiện ra trước mắt bà, nhếch nhác, đầy rác rưởi, mặt nước đen ngòm. Vũ ngậm ngùi nói:

-      Con sông êm đềm ngày xưa đã mất rồi Linh ạ, giống như những tháng ngày học trò hồn nhiên của chúng ta vậy, không sao tìm lại được nữa.

Lúc hai người quay trở lại, bà nói, giọng khô khốc;

-      Anh Vũ à, tự nhiên tôi có một ý nghĩ hết sức ích kỷ là tôi phải tìm lại dòng sông này, phải tìm lại anh để hỏi cho được những điều tôi hằng thắc mắc. Một lần thôi, để rồi tôi không còn phải nuối tiếc gì nữa. Trong giây phút này, tôi thấy như một cánh cửa vô hình nào đó của quá khứ vừa khép lại, để tôi không còn vương vấn gì đến nó nữa.

Vũ nói, giọng bâng khuâng:

-      Rồi Thuỳ Linh lại trở về bên đó à? Linh nhận nước Mỹ làm quê hương sao?

Bà nhìn về phía trước như nhìn vào khoảng không:

-      Anh Vũ biết quê hương mới tìm thấy của tôi là ở đâu không? Đó chính là thân xác của tôi đây này. Cho dù tôi có đi đâu cùng trời cuối đất đi nữa, tôi vẫn ở trong quê hương tôi. Anh biết không, mỗi buổi tối khi tôi được lên giường nằm sau những công việc hằng ngày, tôi thấy đó là thời khắc an bình nhất. Lúc đó tôi hoàn toàn thuộc về tôi. Không ai có thể bắt tôi làm điều gì trong lúc đó nữa. Tôi đã trở về quê hương của tôi hằng đêm như vậy đó, lúc thân xác và tâm hồn lắng đọng lại thành một. Cảm giác đó thật tuyệt vời. Cố nhiên, cho đến một ngày nào, rồi tôi cũng bỏ quê hương đó mà đi, như bao nhiêu người khác...

Ánh nắng buổi xế trưa ở thôn Phước Thiện chợt đậm đặc lại một chút, y như nắng trên đường Thống Nhất ở Phan Rang. Xin giã từ Phước Thiện. Giã từ Vũ. Giã từ những giấc mơ vụng dại ngày xưa. Bà chợt nhớ đến câu hát “Dòng sông trước kia tôi về, bỗng giờ đây đã khô không ngờ” của Trịnh Công Sơn. Dòng sông Phước Thiện chưa khô cạn, nhưng cũng không còn như ngày xưa nữa. Gấu Bông không còn nữa. Thuỷ Trúc không còn nữa. Thuỳ Linh cũng coi như không còn nữa. Chỉ có màu nắng vàng như hỗ phách bây giờ là dường như từ trước đến giờ chẳng hề nhạt phai.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.