Hôm nay,  

Tiếng Gọi Của Lịch Sử

06/06/202016:43:00(Xem: 5772)

                                                  

 

            Sau công phu sáng, bước ra nhà bếp xé tờ lịch thì hiện ra hôm nay là ngày 6 tháng 6 năm 2020.

            Ngày 6 tháng 6, bỗng như que diêm nào bất ngờ bật lên trong ký ức tôi đã từ lâu lắng xuống.

            Tại sao hôm nay lại bật lên? Biết rằng băn khoăn cũng chẳng có câu trả lời, như mưa mới rạt rào đây mà giờ nắng đã lên rực rỡ. Muôn sự còn muôn thẳm sâu mà sự phán đoán ước lệ của suy tưởng vật lý chưa chạm tới được sự mầu nhiệm của tâm linh. Đủ duyên thì lộ, chưa đủ duyên thì ẩn. Chấp nhận vậy thôi.

            Ngày 6 tháng 6 năm 1944.

            Ngày có tên lịch sử là D-Day.

           
Hue Tran
Ngày lực lượng quân đội đồng minh đổ bộ lên bãi biển Omaha, tỉnh Normandie Pháp Quốc để ngăn chặn âm mưu thống trị toàn cầu của Đức Quốc Xã.

            Ngày D-Day lịch sử đó, tới nay vừa đúng 76 năm, hơn ¾ thế kỷ.

            Và với tôi, kẻ lang thang đặt chân tới địa danh lịch sử đó vào mùa hè năm 2000, tới nay vừa đúng 20 năm.

            20 năm trước, con dế mèn như tôi làm sao có thể phiêu lưu ký tới một nơi chốn lịch sử mà dù có nằm mơ cũng không mơ tới được.

            Số là, thời đó tôi còn quẩn quanh chốn bụi hồng, đi làm kiếm cơm nuôi thân và nuôi gia đình. Công việc kế toán trong văn phòng không khó nhọc chi, nên buổi tối, tôi ghi danh học thêm ngoại ngữ tại Cerritos College. Một, trong những môn học đó là Pháp ngữ vì tôi từng được phụ thân chỉ dạy những nét đặc thù phong phú của nền văn học này.

            Lớp Pháp ngữ tôi theo học do giáo sư Roland Bellugue hướng dẫn. Với quá “ngũ thập cổ lai hy”, có lẽ tôi là học sinh già nhất so với các bạn đồng học. Biết thế, tôi luôn cố gắng, siêng năng, không bỏ một buổi nào trong suốt 3 khóa học. Trước khi bế giảng khóa thứ ba, đó là mùa hè năm 2000, giáo sư Roland Bellugue báo tin mừng là hè năm nay sẽ có chương trình gặp gỡ, trao đổi kiến thức giữa các sinh viên từ khắp nơi, quy tụ về đại học xá tại Paris, trọn một tháng ăn, ở, tại Cité Universitaire. Thầy cho biết, ai muốn tham dự phải ghi danh sớm, và lệ phí không đến nỗi “hết hồn” như tôi tưởng!

            Đúng thời gian đó, tôi vừa đủ tuổi để có thể “về hưu non” dù bạn bè đều cản là còn sức khỏe, làm tiếp đi, sau này tiền hưu nhiều hơn. Ấy thế mà tôi can đảm “Nhiều để làm gì?”

            Ôi, còn đợi gì nữa! Nộp đơn về hưu ngay. Và ghi danh để có mặt trong nhóm 42 sinh viên mọi quốc tịch mà thầy Roland Bellugue sẽ hướng dẫn qua Pháp.

            Chương trình sẽ học văn học sử buổi sáng, ở đại học Sorbonne với các giáo sư của đại học này; buổi chiều giáo sư phụ trách nhóm nào sẽ hướng dẫn nhóm đó tham quan Paris và những vùng phụ cận. Riêng 3 ngày cuối tuần, mỗi nhóm sẽ tự chọn, tham quan xa hơn, tùy quan điểm của giáo sư hướng dẫn và sinh viên trong nhóm.

            Một, trong những cuối tuần rời Paris 3 ngày, chúng tôi đã được thầy Roland Bellugue cho cơ hội ngàn năm một thuở, là hướng về Normandie, thăm bãi biển Omaha mà ngày D-Day lịch sử năm 1944 hàng trăm ngàn quân đội đồng minh đã đổ bộ cho nền Tự Do Nhân Bản của thế giới.

       Hôm đó, trời bất ngờ đổ mưa tầm tã. Đa số chúng tôi không chuẩn bị đủ áo ấm. Tới Caen, cách bãi biển Omaha không xa, trời ngớt mưa nhưng gió và mây xám vẫn vần vũ. Chúng tôi được ghé vào bảo tàng viện ở Caen để chờ trời quang đãng hơn, và cũng là dịp thăm nơi trưng bày và lưu giữ những hình ảnh về cuộc đổ bộ vĩ đại của quân đội đồng minh ngày 6 tháng 6 năm 1944.

            Tại đây, tôi và các bạn cùng nhóm đều mua nhiều loại postcard về ngày lịch sử đó.

            Chúng tôi chỉ dừng ở Caen khoảng 2 tiếng đồng hồ, rồi lại lên xe bus để tới thăm nghĩa trang quân đội Mỹ ở bãi biển Omaha. Chính nơi đây, hơn nửa thế kỷ trước, rạng sáng ngày 6 tháng 6 năm 1944, khoảng 120 ngàn quân nhân đồng minh và hơn 20 ngàn chiến xa đã đồng loạt đổ bộ tại 5 địa điểm đã chọn sẵn.

           
Hue Tran 02
Con đường dẫn tới địa danh lịch sử đó là làng Vierville, ngôi làng nhỏ với những cánh đồng cỏ thả bò, cừu, những mái nhà thấp, những đền thờ rêu phong, nhưng trên tinh thần thì đây chính là linh hồn Normandie vì làng Vierville đã đi vào lịch sử thế giới cùng với bãi biển máu Omaha.

            Khi xuống xe bus ở trước nghĩa trang, trời lại mưa nhẹ hạt nên tôi chưa vội chụp hình, chỉ kiểm lại xem máy còn bao nhiêu phim. Nhìn thấy con số 26, tôi yên trí đây là cuộn phim 36 tấm.

            Rồi mưa cũng ngưng và trời đã sáng sủa hơn.

            Đứng trước tượng đài, nơi vinh danh những người đã chết cho Tự Do, tôi giơ máy lên, bấm một tấm. Đối diện tượng đài là một cái hồ lớn, với các loại hoa đang nở. Cuối hồ là nghĩa trang quân nhân Hoa Kỳ với 172 mẫu trải cỏ xanh ngắt mênh mông, trên đó 9,386 cây Thánh Giá trắng toát khắc tên những người đã được an táng và 307 mộ bia vô danh.

Tôi lại giơ máy lên, bấm một tấm, với lòng trân trọng người xưa.

            Dọc theo nghĩa trang này là bãi biển Omaha nơi bao người đã ngã gục trước những họng đại bác của Đức Quốc Xã!

            Tôi bỗng cảm thấy cực kỳ rung động khi nhận biết mình đang đứng trên nền đất lịch sử thế giới. Để cảm nhận đầy đủ, tôi đã cúi xuống, tháo giầy.

Khi đôi chân trần vừa chạm trên nền đất lạnh thì trời bỗng nổi gió lớn. Gió lộng ào ào như cơn lốc bất chợt từ đâu tới. Mọi người vội vã chạt rạt vào trong. Tôi nghe các bạn gọi tôi cùng chạy nhưng tôi không bước nổi! Hình như có ai đang giữ tôi lại. Không những không chạy vào, tôi còn bình tĩnh nhắm mắt lại, chờ đợi.

            Lúc đó, tôi chỉ cảm thấy mình nên đứng yên, chờ đợi, mà không biết là chờ đợi cái gì!

            Gió vẫn hú từng cơn, nhưng tôi không sợ hãi. Hình như có nhiều người xung quanh đang xô đẩy nhau. Nhiều ngôn ngữ trộn lẫn trong tiếng gió hú. Gió càng lớn, người càng đông, ngôn ngữ càng đầy … Tới một lúc, tôi nghe được tiếng thúc giục rộn rã, rất rõ ràng, lại như có ai đang phiên dịch trực tiếp cho tôi: “Tiến lên! Tiến lên đi! Tự Do ở trước mặt kia! Hãy tiến lên! Hãy tiến lên đi! …”

            Một vòng tay ôm lấy tôi.

            Tôi mở choàng mắt ra.

            Đó là một người bạn cùng nhóm. Bạn vừa lắc mạnh vai tôi, vừa hỏi:

-         Are you OK?

-         Yes, I am

Nhưng không thể kìm giữ cảm xúc, tôi ôm mặt, òa khóc.

-         Are you sure you OK?

-         Yes,

-         Why are you crying?

-         I am really moved by their courage.

Người bạn gật gù, lẩm bẩm “It is sad!”

Tôi biết chắc rằng, cái cảm giác “sad” của bạn mình không thể nào so sánh  với cơn lốc mà tôi vừa trải qua. Cái cảm giác “sad” nhẹ nhàng quá, mà cơn lốc thì mãnh liệt vô cùng. Cơn lốc đó là tim óc, là máu xương của bất cứ ai còn biết khát khao Tự Do và Nhân Quyền khi hai thứ đó bị tước đoạt.

Trước khi rời bãi biển Omaha, trời đã chạng vạng tối. Tôi giơ máy, bấm một tấm. Không thấy ánh flash!  Nhìn vào máy thì hỡi ơi, phim vẫn nằm ở số 26, có nghĩa, đây là cuộn phim 24 tấm, số tăng tới 26 chỉ là 2 tấm phụ trội thông thường mà tôi đã xử dụng rồi!

Trời hỡi, trong chuyến đi, tôi đã chụp biết bao cuộn phim, sao lại có thể sơ sót đến thế! Sao lại có thể không có một tấm nào ở nơi đầy di tích lịch sử như thế này!

Rời Normandie, mọi người đều nao nức vì điểm tới là St. Malo, một thành phố cổ kính ven biển mà chúng tôi sẽ nghỉ đêm tại một khách sạn trong tỉnh.

Lấy phòng xong, ai cũng vội vã ra phố chơi. Chỉ có tôi ngồi lại, buồn bã giở xấp card postal mua ở Caen ra xem. Ngay tấm đầu tiên, trong một xấp lộn xộn đủ loại, là tấm card ghi lại 2 phần, phần trên, cảnh tượng đài trước hồ và phần dưới là cảnh nghĩa trang với những cột Thánh Giá trắng toát, lạnh lẽo.


Hue Tran 03
Đây chính là hai nơi tôi muốn lưu lại hình ảnh trong máy của mình trước khi lên xe bus, mà máy đã hết phim!

Một tấm cart postal, ghi đúng 2 cảnh này, không thêm, không bớt, không gì khác nữa!

Tôi buông cả xấp cart còn lại xuống mặt giường, không xem gì nữa! Đã quá đủ! Đã quá đủ rồi!

Có phải đây là tín hiệu cho tôi? Có phải những người năm xưa, trong một phút giây thiêng liêng mãnh liệt đã bắt gặp tấm lòng trân trọng nơi tôi?

Sự trùng hợp quá lạ lùng khiến tôi càng nhìn tấm card, càng tin như thế. Chính tấm carte postal này là thông điệp thầm lặng cho tôi biết rằng, cơn lốc bất chợt trên bãi biển Omaha và những tiếng thúc giục huyền bí không phải là ảo tưởng…

Khi đi qua cửa phòng tôi, thấy còn ánh đèn, giáo sư Roland Bellugue đã gõ nhẹ. Thầy luôn quan tâm tới những gì thấy hơi bất thường ở đám học sinh.

Tôi mở cửa, mời thầy vào, đưa thầy xem tấm postcard và nói với thầy về những xúc động đầy ắp trong tôi.

Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu thầy cho rằng tôi quá nhạy cảm mà tưởng như thế. Nhưng tôi đã sửng sốt khi thầy dịu dàng nhìn tôi, nói rằng, có thể, tôi đã vừa được “gặp” họ.

Tôi mở lớn mắt, khiến thầy phải bổ túc thêm điều thầy muốn chia sẻ, là những người năm xưa đó, cũng như vạn hữu này, không có sinh, cũng chẳng có diệt. Nếu nhìn bằng sự trong suốt của tâm linh, ta có thể thấy được sự sinh diệt, còn mất chỉ là chuyển hóa, Sự chuyển hóa không ngừng nên đủ duyên gặp đồng tâm thì giao cảm, qua sát na đó, lại nhẹ như mây, hòa vào vạn hữu, theo giòng chuyển hóa.

Ngay khi đó, tôi không hiểu rõ lời giáo sư Roland Bellugue vì tôi đã để cái lăng kính phân biệt của mình bận rộn với những ngạc nhiên và thắc mắc, rằng giáo sư là người Tây Phương, sao cũng mang những tư tưởng sâu sắc về Đông Phương như vậy? Nếu tôi không quá nông cạn và khờ khạo thì cơ duyên hôm đó, có thể tôi còn được giáo sư chia sẻ bao điều thâm thúy hơn là những đề tài giới hạn trong bài học ở trường lớp!

Từ Pháp Quốc dẫn đám học trò về lại Hoa Kỳ, giáo sư Roland Bellugue không còn đứng lớp nữa. Thầy bị ho nhiều và được chẩn bệnh là ung thư phổi, thời kỳ chót!

Tang lễ thầy có mặt hầu hết những học sinh đã được thầy tận tụy giảng dạy. Trước linh cữu thầy, tôi nghe đáy lòng mình thầm thổn thức “Thầy đang chuyển hóa! Thầy đang chuyển hóa thôi mà!”

Và một buổi chiều, ngồi dưới gốc bưởi trong vườn sau, tôi đã chợt mỉm cười với một bóng mây bay qua.

Vì đó có thể không chỉ là bóng mây.

Vì đó có thể là giáo sư Roland Bellugue.

Thầy sẽ ôm tập bài soạn bìa xanh quen thuộc, bước vào lớp, vui vẻ bắt đầu buổi học bằng câu “Bonjour tout le monde”.

76 năm lịch sử đã qua.

20 năm tình cờ lưu dấu.

Nhìn lại thì dường như:

“Không năm, không tháng, không ngày

Thời gian là hạt bụi bay vô thường”

 

Huệ Trân

(dăm sát na tưởng niệm)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.