Hôm nay,  

Kể Chuyện Mà Chơi

01/08/202010:58:00(Xem: 3730)

 


Chẳng biết y trở thành tay kể chuyện tự bao giờ? Y vốn là người chẳng có tài cán hay năng lực chi cả, chỉ được mỗi cái thật thà như đếm và chịu đọc sách, thỉnh thoảng cũng đi đây đi đó nên thu thập khá khá chuyện để mà kể. Thiên hạ nhiều khi cũng khóc cười theo chuyện của y, cũng có kẻ chửi, khi dễ cho là chuyện của y nhạt như nước ốc. Y cười hì hì như thằng khờ chẳng chấp chi, vì y vốn tâm niệm: “Kể chuyện chơi thôi mà!”

Y sanh ra và lớn lên ở một trấn nhỏ thuộc vùng quê xa xôi, ở đây tuy nghèo, dân cư mộc mạc chất phác đến độ quê mùa, nhưng laị đầy ắp những huyền sử hấp dẫn, chuyện cổ sử hào hùng và tàn khốc vào hàng bậc nhất của xứ sở này, thỉnh thoảng có người laị khẳng định đã gặp những nàng ma nữ đẹp thiên kiều bá mị thường khóc dưới đêm trăng. Cái trấn nhỏ ấy đã qua bao đời chủ, tuy khác giòng giống nhưng oanh liệt không ai bằng. Trấn nhỏ nhưng trầm tích chứa trong lòng không hề nhỏ chút nào! Không biết nhân duyên thế nào mà y laị lang bạt bỏ trấn cũ nọ để đến sinh sống ở trấn Mộc Lan này. Kẻ mau miệng bảo may mắn nhưng cũng có người laị hàng hai: “ Chắc gì may mắn? có ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Y nghe thế nhưng cũng cười xuề xòa thôi, thời thế nó thế, số phận đẩy đưa, có mấy ai làm chủ được số phận đâu?  Người đời nói gì thì nói, trước sau y cũng chỉ ngoác miệng ra cười hềnh hệch như thằng đần, có khi thì nhếch mép cười ra vẻ khinh bạc, hoặc giả cười giả lả nói đa tạ thế thôi.

Y lên rừng, xuống bể, vào thành ra trấn, về đồng chơi nội…có đôi khi dừng chân ở góc phố nào đó, làm ly cà phê kiểu Ý, ngồi ghi ghi chép chép. Người ta chẳng biết y viết gì mà cắm cúi viết hoài, có người ngứa miệng:

- Lão gàn ấy mà! viết gì mà mải miết viết hoài? rượu không uống, gái đẹp không nhìn, đời vui không hưởng…gàn sao mà gàn thế! cái lão viết ra có làm cho lão sướng chăng? Nó có thú bằng uống rượu chơi gái chăng? Có giúp lão no bụng chăng?

Nghe thế, y ngước mặt lên, cái bản mặt sao mà ngờ nghệch cười tủm tỉm:

- Cái sướng của ta làm sao ngươi biết được? 

Gã kia nghe thế bèn vặn:

- Lão sướng thế nào? Hí hoáy viết là sướng sao? thế lão có điên không?

Y không cười tủm tỉm nữa mà cười thành tiếng khanh khách.

- Cái điên của ta ngươi có muốn điên theo cũng không thể điên được đâu! 

- Vậy thì lão cứ sướng với cái điên của lão nhé! Tôi đi hưởng cái sướng của tôi.

- Ta có bảo ngươi xía vào cái điên của ta đâu? ta điên với cái sướng của ta, ngươi cứ việc sướng với cái tỉnh của ngươi, chưa biết cái điên của ta và cái tỉnh của ngươi cái nào hay  hơn?  Ngươi không thể nào biết cái điên của ta sướng ra làm sao và ta cũng không làm sao biết được cái tỉnh của ngươi sướng như thế nào.

Người kia nghe thế bèn bỏ đi, y laị tiếp tục rị mọ viết, lúc thì y đi chỗ này chỗ nọ kể chuyện cho người đời nghe chơi. Chuyện y kể bên Tây bên Tàu cũng có, chuyện cổ chuyện kim cũng có, đôi khi laị kể chuyện nhơn tình đạo lý, những lúc bực bội quan quyền nhận giặc làm cha thì y kể chuyện sử, chuyện dân tình quốc sự… Những người thường nghe y kể chuyện thì nhận thấy y khoái kể chuyện thiền môn, chuyện chữ nghĩa, những lúc y kể chuyện ấy thì mắt y sáng long lanh, nhìn xa xôi diệu vợi, thân xác y ngồi đó mà tâm thần y như chơi vơi nơi xa khơi, hoặc là nhập thần vào câu chuyện chứ chẳng còn sống với thực tại nữa. 

Y đã từng có ý định “ Thấy người sang bắt quàng làm họ”, gởi thiệp xin cầu kiến kết thân, ký sách tặng những bậc cây đa cây đề… hy vọng bọn họ để mắt đến, hoặc mong được bọn họ cho nhập hội, tiếc thay chẳng thấy bọn họ hồi âm, có thể bọn họ vất vào sọt rác, hay coi như những loại quảng cáo rẻ tiền, cũng có người thương haị nên khen vu vơ, trổng trơ vài lời khách sáo cho có lệ. Có lẽ nhờ thế mà y có được phút giây giật mình tỉnh ra, từ đó  y bỏ ý định kết thân hay nhập hội. Y an phận vui lòng với phần số của mình, ngày ngày rong chơi kể chuyện  với người đời.

Thiên hạ vốn thiên sai vạn biệt, có người không ưa nhưng cũng có một số người thích, chịu cái điên của y, thậm chí vui với cái điên của y, mến mộ và có vài lời khen tặng chân tình. Không biết có phải vì quá cảm kích nên y càng kể chuyện hăng say hơn, cái điên của y càng ngày càng nặng hơn. Không ít lần y dốc cạn những đồng tiền ít ỏi để mua giấy hoa tiên chép thơ tặng khách qua đường. Người ta cười cợt, có người vất ngay tại chỗ, cứ như mấy miếng giấy quảng cáo trĩ mạch lương, keo dính chuột, sơn Nippon… Cũng có người chịu đọc lướt qua rồi nhét vào túi. Một hôm kia, có gã trung niên đi qua. Y kính cẩn tặng mấy tờ hoa tiên chép thơ, người ấy trân mắt nhìn y rồi chăm chú đọc, đọc xong lật qua lật laị xem xét tờ hoa tiên kỹ lắm. Kế người ấy bảo:

- Anh có thể vào vào rượu bên kia đường cùng ta?

Y gật đầu và bước theo người ấy, an vị và một chai rượu Tây ra, gã trung niên ấy vặn hỏi:

- Anh làm thơ như thế liệu có hối hận chăng? thời buổi hôm nay không có chỗ cho kẻ làm thơ, laị càng không có đất cho những người kể chuyện mà chơi như anh đâu.

Y thật thà giải bày:

- Không hề hối hận, âu cũng là nghiệp chữ. Xin cảm ơn tân khách đã có lòng hạ cố, xin nhận đây một lễ bái làm huynh. Thật tình mà nói, mười mấy năm nay ai cũng bảo đệ điên, ai cũng cho đệ không xứng đáng góp mặt cùng mâm cùng chiếu, chưa có ai đối xử với đệ như huynh cả. Đệ xin đa tạ tấm lòng trân quý của huynh

Gã trung niên dường như có vẻ hữu tình liên đới:

- Cảm ơn hiền đệ, ta lang bạt phong trần cũng hơn nửa đời người, gặp đủ hạng người trong thiên hạ, nay gặp đệ ở đây coi như cũng có duyên phần. Ta qúy con người đệ, cung cách đệ và nhất là những giòng chữ đệ viết ra,  mời đệ một chén này!

Y bất chợt lung túng:

- Đệ đã thọ giới, mười lăm năm nay môi chưa chạm một giọt rượu nào.

Gã trung niên cười ngất:

- Thảo nào thiên hạ bảo đệ điên, thế hôm nay vì tình huynh đệ cũng không dám một lần vượt qua sao?

Y thật sự lung túng, chữ nghĩa bay biến mất, không tìm được lời nào để chống chế bèn bưng chén rượu uống cạn. Buổi sơ ngộ thật viên mãn nhưng rồi cũng đến lúc phải giã từ, gã trung niên dúi vào tay y một tấm danh thiếp và bảo:

- Sau này có việc, hãy theo địa chỉ này mà đến.

Y cầm tấm danh thiếp nhưng cũng chẳng nhìn trên ấy viết gì, chỉ nhét vào cái đãy vải đeo bên mình. Kể từ buổi tao ngộ lạ lùng ấy, y càng ngày càng điên hơn, kể chuyện chơi mà quên cả bản thân, quên cả thời gian và quốc độ, càng kể chuyện thì càng điên, điên đến độ như lên đồng nhập cơ, như phê thuốc phiện, như nghiện xì ke. Một hôm y kể chuyện quan quyền bức hiếp, hạnh hoẹ dân lành; chuyện giặc Tàu xà xẻo non sông, biển cả; chuyện triều đình qùy gối ôm chân…Y còn đang say sưa thì nhận được tin nhắn của mật vụ hăm dọa:

- Hãy cẩn thận! chuyện của ông sẽ làm cho ông gặp rắc rối đấy! 

Bạn bè y biết chuyện, bèn khuyên y:

- Thôi, né tránh chuyện nhạy cảm đi! việc đó để triều đình lo! 

Y thấy lòng trống trải dễ sợ, đành cảm ơn cho có lệ chứ thật tình y chẳng muốn nói gì thêm. Bạn bè y phần nhiều đều công thành danh toại, có nhiều đứa làm quan lớn, địa vị cao, tài sản kếch xù. Có đứa trở thành thương gia nghiệp chủ, có kẻ thành bác sĩ, kỹ sư… Nói chung bọn họ đều là ông nọ bà kia cả, bọn họ rất lanh, rất khôn và nhạy bén chứ hổng có điên và hậu đậu như y. Trong đám bạn ấy, có đứa lấy tình đồng môn, kêu y ra quán nhậu nhắn nhủ:

- Kể chuyện tiếu lâm, chuyện tục, chuyện hài có phải vui hơn không? kể chuyện chân dài, đaị gia, gái ghú có phải hấp dẫn hơn không? chuyện thời thượng bây giờ là khoe thân, khoe của, ăn chơi, trai trẻ lái máy bay bà già, trâu già gặm có non, chuyện tình tay ba, tay tư…cả khối chuyện ấy không kể. Lão kể ba cái chuyện dân tình quốc sự chi cho nguy hiểm, lão đừng động đến nữa nhé! Không chừng gặp tai nạn bất ngờ, bị giang hồ chém lầm, bị đuổi khỏi chỗ trọ…lão cứ kể mấy chuyện mà tôi vừa gợi ý đó, tên lão sẽ nổi như cồn laị còn có chút cháo. 

Nghe bạn khuyên thế, y ngoác miệng cười hề hề như thằng ban khỉ, y không trả lời nhưng bụng y đang thầm thì:” Bố khỉ nhà anh, khôn lanh có thừa! thiên hạ đầy những người như anh thảo nào giang san này sứt mẻ, xã hội suy đồi, đạo đức hư hỏng, giềng mối lơi lỏng, văn hoá thụt lùi, ngôn ngữ lai căng, chữ nghĩa nhảm nhí…” Nghĩ thế thôi chứ y không nói ra. Y biết nói với những người như thế thì thà nói với đầu gối của y còn hơn, dù sao y cũng cảm ơn anh ta. Hôm nọ y lại quay về với sở trường của mình, y kể chuyện thiền môn. Xứ sở cố cựu của y ngày nay chùa chiền mọc lên như nấm, toàn những ngôi chùa to lớn đồ sộ cả ngàn lượng vàng, vàng son lộng lẫy, cái thì như cung vua phủ chúa, cái thì như tử cấm thành Bắc Kinh. Tà sư ma tăng quanh năm bày trò cúng sao, giải hạn, mở ngải, trừ tà , phong thủy, cúng đám… giá cả niêm yết rõ ràng, thậm chí cho trả góp. Mấy vị ấy rủng roẻn bạc tiền, ăn uống lu bù, du hí khắp nơi, hội hè tung tẩy… Y thấy thương cho những tín đồ mê muội, cung phụng quá đáng  cho những kẻ lợi dụng lòng tin. Thế rồi giọng của y chùng xuống, y kể về ông tăng nơi am vắng, mắt trừng suốt ba ngàn thế giới, thân gầy guộc mà vững như bàn thạch, gió giông chẳng suy suyển, lợi lạc không lung lay, uy quyền không khuất phục. Bàn tay sư gấy, tấm cà sa mong manh mà chắn cả cuồng phong để hộ pháp, hộ dân, hộ quốc. Ông tăng âý ngày đêm chịu sự uy hiếp của quan nha, đồng đạo  pháp lữ dèm pha, cô lập…Y còn say sưa kể thì có kẻ chen ngang:

- Lão dư hơi rảnh háng, kể chi chuyện khô khan vậy? hãy kể chuyện đaị gia cặp chân dài, chuyện thiếu gia ăn đặc sản cường dương, chuyện tranh ghế ra đòn độc…có phải bốc lửa hơn không? 

Y đập tay xuống bàn cười sằng sặc, cười văng nước bọt, cười rơi nước mắt:

- Ta vốn điên, giờ bảo ta kể những chuyện ấy hoá ra ta tỉnh ư? đem cái điên của ta đổi cái tỉnh ấy thì ta nhất quyết không đổi! Ta sướng với cái điên của ta, một mai hết điên thì liệu ta có còn sướng? ai bảo sao kệ họ, ta quyết sống chết với cái điên của ta, kể chuyện mà chơi, điên lắm! nhưng không điên không được đâu! một mai không điên nữa thì ta có còn là ta không? 

Người kia nghe thế bèn lầu bầu trước khi bỏ đi:

- Đồ điên, điên thật tình rồi! ai laị sướng với cái điên? Sao không vui với cái tỉnh như thiên hạ? điên mà đòi hơn tỉnh được à? 

Thế rồi một hôm kia, có ả má đỏ môi hồng, mắt long lanh đong đưa đến bên y thỏ thẻ:

- Lão  khá bảnh trai, kể chuyện cũng hay! Em thích nghe lão kể chuyện chơi, trái tim em có phần xao xuyến vì lão, ngặt lão điên quá, giá mà lão đừng điên nữa, hoặc bớt điên đi, mình yêu nhau hưởng cái vui của cuộc đời. 

Y nghe xong, bần thần chột dạ:” Ta vốn xấc bất xang bang, không chức tước danh vị, không tiền bạc của cải, chỉ có mỗi cái bụng chữ vớ vẩm ẩm ương, thân ta vốn từ tứ đaị giả hợp mà thành, vậy nàng yêu cái gì ở ta? Nàng bảo thích nghe ta kể chuyện chơi nhưng laị bảo ta đừng điên, nếu không điên thì làm sao ta kể chuyện chơi được? rốt cuộc nàng yêu cái gì đây? phải chăng con gái nói có là không, nói không là có? Sao mà giống hệt Tâm Kinh vậy? sắc tức là không, không tức là sắc đây mà! Ta có nên đừng điên nữa để mà yêu nàng? “ đầu óc y quay cuồng với muôn vàn câu hỏi, những câu hỏi xoáy vào, xoắn xuýt mà không có lời giải. Y ngồi thừ ra đấy, lát sau y mới khẽ khọt:

 - Cảm ơn nàng đã hạ mình chiếu cố đến ta, cảm kích cái tình của nàng lắm, nhưng ngặt nỗi một khi ta không điên nữa để yêu nàng thì lấy ai mà kể chuyện chơi với đời? một khi ta không điên nữa, không kể chuyện mà chơi với đời thì liệu nàng có còn xao xuyến? chính nàng bảo nàng xao xuyến vì ta kể chuyện chơi với đời cơ mà! 

Ả nghe xong, ngúng nguẩy mông, chu mỏ mà bỏ đi. Tối ấy, nằm trong căn nhà gỗ cũ kỹ giữa vườn hoa. Y đang vẩn vơ tìm tứ để kể chuyện cho những ngày sắp đến, chợt có tiếng cười trong trẻo như pha lê thánh thót văng vẳng ngoài hiên. Y lắng nghe, không phải một giọng cười mà có nhiều giọng cười khác nữa, có giọng thì khanh khách giòn tan như trẻ con, có giọng thì ngân nga như khánh ngọc, laị có giọng như suối róc rách giữa rừng và lẫn trong đấy có giọng trầm ấm của nam nhân. Y khẽ vén rèm nhìn ra thì thấy một nhóm đồng nam và đồng nữ bên thềm hoa, hình như bọn họ có thần thông nên biết y nhìn lén:

- A, lão điên vẫn chưa ngủ, mời lão ra ngoài này thưởng hoa ngắm trăng với bọn em, cớ sao đêm trăng thanh hoa quỳnh nở, quang cảnh tuyệt vời như thế này mà lão nằm ru rú trong căn phòng tù túng như thế? 

Y thoáng mắc cỡ với bọn đồng nam đồng nữ, ra đến cửa thì y cảm thấy như hoa cả mắt. Y nghĩ bụng:” Bọn chúng xinh đẹp quá, thơm quá, mơn mởm quá”. Y chống chế:

- Ta đang tìm tứ cho những chuyện sắp kể trong những ngày sắp đến.

Một cô trong bọn đồng nữ cười nắc nẻ:

- Lão khờ quá! người ta bảo lão điên quả thật không sai tí nào, trăng sáng, hoa nở, gái đẹp như thế này không hưởng laị lo tìm chuyện để kể. Lão bỏ cái điên của lão đi! hãy mang nậm Hoàng Hoa tửu ra đây, cùng say với bọn em đêm này!

Y khoái chí ra mặt nhưng lòng còn ngần ngại vì sợ phạm giới:

- Ta thọ giới với lão sư phụ năm xưa, tuy muốn uống rượu nhưng không dám!

Gã đồng nam mặt mày tuấn tú khôi ngô, đưa tay rẽ mái tóc loà xoà trước trán và cười khanh khách

- Lão điên quá mấy em ơi! Lão kể chuyện mà chơi cho thiên hạ nghe bao năm nay, thế mà lão không thông, lão “y ngữ bất y nghĩa”, lão chấp chặt văn tự, đáng thương cho lão. Này lão điên kia! Nhà Phật chế giới cấm là để ngăn ngừa sự say sưa quá đáng, sự đắm đuối hư hỏng chứ nào phải để cấm tri kỷ tương phùng. Nhất hoa, nhất diệp nào khác nhất thế giới, nhất Như Lai! Lão tự phụ một bụng chữ mà lão không thông lý, không rõ lẽ, lão  kẹt vào chữ nên không thoáng nghĩa… thảo nào thiên hạ bảo lão điên. Lão vui với cái điên của lão kể cũng nhất rồi, giá mà lão vượt qua chính lão thì cái điên này mới thật là sướng không gì bằng, thật không chữ nghĩa nào tả được! lúc bấy giờ cái điên của lão mới thật là thượng thừa điên! 

Y nghe gã đồng nam nói thế, giật mình toát mồ hôi đầm đìa, mặc cho không khí đêm khuya đang lạnh hơi sương, bao nhiêu chữ nghĩa bay biến như mây trên đầu núi, đầu óc y lâng lâng, bàn chân cơ hồ như không còn đứng trên mặt đất. Y quay vào căn nhà gỗ lấy bầu Hoàng Hoa tửu giấu trong góc tủ mười mấy năm nay, mang ra thềm hoa, y rót một chén, hai tay nâng rất trịnh trọng:

- Tạ ơn Phật, tạ ơn trời đất, tạ ơn lời cảnh tỉnh của qúy huynh đệ. Ta lâu nay quờ quạng trong cái màn hư ảo mà ngỡ mình sướng vì điên, cứ ngỡ mình điên thật, thật sự chưa phải điên, chưa sướng đúng điệu với cái điên, chẳng qua là mới ngấp nghé cái bờ mé mà thôi! Kể chuyệm mà chơi cho người đời nghe, nếu mình còn dính mắc cái tôi, có người đi kể, có kẻ ngồi nghe, có chưyện để kể đó là hạng xoàng! Đêm nay trăng sáng, hoa quỳnh nở, bọn đồng nam, đồng nữ đến thềm hoa hiên nhà đã giúp ta mở mắt ra và thấy rõ rằng cái điên của ta chưa thật sự điên, chưa thật hưởng cái sướng thật sự của cái điên này!

Y dứt lời, bọn đồng nữ, đồng nam vây quanh kéo tay bẹo má lão, cù lét lão. Bọn chúng cười như nắc nẻ, tiếng cười lay động cả ánh trăng, khuấy động cho làn hương hoa quỳnh tỏa ngan ngát.

- Lão điên thật rồi! giờ lão điên thật sự rồi! Bọn ta yêu cái điên của lão, đến đây vì cái điên này! kể từ đêm nay, lão thật sự sướng với cái điên thượng thừa của lão.

Rượu ngọt, tay mềm, hương thơm làm cho y ngất ngây:”Ta mơ hay tỉnh đây? Ta điên thật sự? ta sướng với cái điên? Bao năm qua kể chuyện mà chơi, tưởng mình có vốn liếng chữ nghĩa khá khá, nào ngờ đêm nay tan biến sạch làu, lòng trống như không gian mênh mông này! Kể chuyện mà chơi, văn chương ấm ớ, chữ nghĩa nhì nhằng, văn tự lôm côm hoá ra không bằng hơi rượu đêm trăng. Ta là ai trong cuộc đời này? ta đến đây để làm gì và mai này sẽ về đâu?”  Y còn ngơ ngẩn như người mặt đất lên cung trăng. Bọn đồng nữ, đồng nam kéo y ngồi xuống ghế, các cô bẹo má, bóp vai. Có kẻ còn mơn trớn hôn lên môi y. Cả bọn cười như thể chưa được cười bao giờ:

- Lão điên thật sự rồi các cậu ơi! Lão đang tận hưởng cái điên của lão. Lão làm cho bọn ta cũng sướng lây vì cái điên của lão. 

Gã đồng nam rót chén rượu mời y, chén rượu sóng sánh lấp loáng ánh trăng tan. Y uống cạn chén rượu, mùi hoàng hoa phảng phất , cái nồng cay cay tê đầu lưỡi, làn sóng đê mê xuyên suốt châu thân y, lan toả vào tận tâm can phế phổi.  Y thấy sảng khoái lạ thường, tinh thần hưng phấn, tâm trí rạng rỡ, bao nhiêu dự tính chuyện kể mà chơi cho ngày mai tan biến sạch trơn như chén rượu cạn. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 072020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.