Hôm nay,  

Em Về Trẩy Hội Vu Lan

27/08/202014:43:00(Xem: 2839)

 Em thướt tha trong ta áo dài màu hoa dương, cái màu tươi sáng rực rỡ như màu nắng của xứ sở này, tà áo dài của em như nổi bật giữa vườn chùa xanh biếc. Các bà, các cô cũng xúng xính với những tà áo dài thiên thanh, hồng phấn, cánh sen, bạch ngọc… cứ như một bầy bướm ở vườn địa đàng, những tà áo lam thanh tịnh, giản dị dung chứa ý nghĩa đạo cả, những vạt áo nâu hiền hoà, bình dị và chơn chất như đất cùng về trẩy hội Vu Lan. Lá đại kỳ năm màu bay trong nắng gió trông đẹp làm sao, lòng người phấn chấn như ngũ căn, ngũ lực vậy. Các dây cờ năm màu được treo khắp nơi càng làm cho quang cảnh quanh chùa thêm phần rạng rỡ trong ngày hội hiếu. 

 Thầy ban đạo từ xong, các em thiếu nhi ra trước lễ đài múa dân hoa cúng dường. Các em sinh ra và lớn lên ở đây, tiếng Việt không rành và cũng chưa đủ kiến thức để hiểu biết về đức Phật và Phật pháp. Các em được được phụ huynh chở về chùa mỗi cuối tuần để các những anh chị trong gia đình Phật tử dạy tiếng Việt, hướng dẫn các nghi thức tối thiểu trong chùa và truyền trao kiến thức Phật học. sáng hôm nay, tại lễ đài này, các em múa hát dâng hương và đọc những bài văn bằng tiếng Việt cho toàn thể phụ huynh và quý Phật tử đồng hương nghe.

 Y và em ngồi nghe thầy trùng tuyên điển tích ngài Mục Kiền Liên. Em thì thầm thắc mắc:

 - Ngài Mục Kiền Liên là đệ tử lớn của Phật, được tôn xưng là đệ nhất thần thông, vậy những đệ khác khác thần thông không bằng ngài sao? 

 Y nhìn em trìu mến:

 - Không phải vậy đâu, các đệ tử Phật đã chứng đắc A La Hán nên thần thông, trí huệ, năng lực… như nhau. Ngài Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất, ngài Xá Lợi Phất là trí huệ đệ nhất, ngài A Nan là khai ngộ đệ nhất…Ấy là mang tính biểu trưng, mỗi người đaị diện cho một mặt. Thật ra thì các ngài A La Hán ấy ai cũng là thần thông đệ nhất, trí huệ đệ  nhất, mật hạnh đệ nhất cả.

 Em vén tà áo dài, ý tứ khép chân laị rồi nói:

 - Ngài Mục Kiền Liên là bậc A La Hán thần thông đệ nhất, vậy mà mẹ của ngài đọa u đồ, vậy chúng ta là phàm phu tục tử như thế này, việc cầu nguyện, tu học chẳng tới đâu làm sao mà hồi hướng công đức cho ông bà cha mẹ hay cho khắp pháp giới đây? 

 Y đưa tay chỉ những đoá hoa chưng bên tôn tượng Thế Tôn:

 - Em xem kìa, những bông hoa xinh đẹp và thơm tho dâng cúng dường. Nếu chỉ một người nhìn mà hưởng thì sắc hương hoa ấy không tăng, còn như tất cả mọi người cùng nhìn hưởng hoa thì sắc hương ấy cũng chẳng hao hớt tí nào. Ngoài những người có mặt ở đây, còn có vô số chư thiên, quỷ thần, phi nhơn… cùng đến hưởng hoa nhưng sắc hương vẫn vậy! Em còn nhớ thuở nhỏ không, tuị mình chơi ống kính vạn hoa, chỉ khẽ động tâm xoay nhẹ là có vô số hình dạng đổi thay, trùng trùng hoa hiện trong ống kính ấy. Em đừng quan tâm chuyện công đức ít hay nhiều, lớn hay nhỏ, quan trọng là ở tâm lượng của mình. 

 Ngài Mục Kiền Liên là bậc A La Hán thần thông đệ nhất nhưng mẹ ngài đọa u đồ cũng là chuyện thường tình. Mỗi người đi một đường thì làm sao gặp nhau, kẻ đi xuống người đi lên thì làm sao có kết quả giống nhau, nhân quả là vậy, không sai vạy bao giờ. Con người ta ở cõi này, vì nhơn duyên mà đến với nhau để làm cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bằng hữu… nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi, khi hết số thì đường ai nấy đi, nghiệp ai nấy thọ, dẫu có thương nhau ra rít cũng đành thôi, không ai cứu ai được. Khi còn sống thì có thể hưởng phước ké của nhau, như anh với em đây, chúng mình chia sẻ nhau tiền bạc, của cải vật chất… có thể cho tất cả, nhưng trí huệ thì không thể cho nhau, mệnh số không thể san sẻ; rồi một khi chết thì nghiệp ai nấy chịu, độc sanh, độc tử, độc khứ, độc lai. Vậy mới biết tu học Phật pháp là việc cá nhân, mỗi người phải tự dấn thân. Anh thương em nhưng không thể tu giúp em được, thầy thương đệ tử nhưng thầy cũng không tu giúp ai được. Đừng nghĩ mình đến chùa bỏ một ít tiền vào thùng phước sương hay cúng dường một khoản tiền rồi thì thầy tu giùm mình, thầy tụng kinh, niệm chú, cầu nguyện cho mình, không được đâu, ai ăn nấy no nghe em.

 Em yêu ơi, hãy nhớ lời Phật dạy, tự mình là ngọn đuốc, tự mình thắp đuốc lên mà đi! Thầy hay bạn hữu đồng tu chỉ là người hướng dẫn, là trợ duyên chứ không phải người tu giúp mình. 

 Em tha thướt tà áo dài bước lên trước lễ đài dâng nén hương trầm, thứ trầm hương chính hiệu mà em cất công tìm mua để cúng dường. Áo dài tha thướt, hài thêu nhẹ êm như một tiểu thư thuở xa xưa. Em thích giày cao gót khi đi mua sắm, nhưng lễ chùa thì mang hài thêu. Chiếc hài xinh quá, thêu hoa thật đẹp, ôm gọn ghẽ đôi bàn chân thon trắng nuột nà, dâng hương xong em lui về chỗ của mình, ngồi bắt chéo chân, bàn chân mang hài  xìa ra đẹp làm sao. Y vốn yêu thích nhìn em trong tà áo dài với hài thêu, giữa vườn chùa hôm nay, em và y cùng về trẩy hội hiếu,  cảm khái dâng trào, cảm khái cao độ y xuất khẩu thành thơ:

 Em về trẩy hội Vu Lan

 Hài thêu hoa với áo vàng thướt tha

 Dâng hương đảnh lễ Phật đà 

 Thì thầm khấn nguyện dưới toà Như Lai

 Này đây vóc dáng hình hài

 Con khôn lớn mẹ rạc rài xác thân

 Nghĩ về tứ trọng thâm ân

 Lòng hoan hỷ lắm tinh thần khắc ghi

 Phật đà  rất mực từ bi

 Mười phương tăng cũng hộ trì chúng sanh

 Pháp Phật mở lối an lành

 Gương xưa hiếu tử mà thành hội nay

 Y còn đang nghĩ về tam bảo, chợt nghe em thỏ thẻ:

 - Thuở nhỏ em vẫn thường nghe mẹ kể tích bà Thanh Đề, bà ấy làm bánh bao nhân thịt chó để đặt bát cho chư tăng, sự thật thế nào? 

 Y quay laị nhìn em rồi từ tốn giải thích:

 - Đó là tích người Tàu chế ra, tuy khác biệt nhưng căn bản vẫn là từ cái gốc chuyện ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ.
Bánh bao và thịt chó có thể nói là đặc sản văn hoá ẩm thực của người Tàu. Lịch sử văn hoá và ẩm thực nhiều ngàn năm của Ấn Độ không hề có, người Ấn Độ có thể là tín đồ Phật giáo, HinDu…nhưng phần lớn đều ăn chay không ăn thịt,  thịt chó laị càng không, có thể nói Ấn Độ là quốc gia có truyền thống ăn chay lâu đời nhất, có số lượng người ăn chay nhiều nhất thế giới. 

 Phật giáo truyền đến Trung Quốc thì bị thay đổi, biến dạng rất nhiều, đã bị bổn thổ hoá, địa phương hoá, Trung Hoa hoá từ nghi lễ, pháp phục, pháp khí, môn phái và nhiều yếu tố trong kinh điển. Dù có khác thế nào đi nữa, mình vẫn cứ  bám lấy cốt lõi của đạo là đúng pháp, dù tu theo môn phái nào, truyền thống nào nhưng giữ lấy nền tảng: Tứ diệu đế, bát thánh đạo, thập nhị nhân duyên, ba mươi bảy phẩm trợ đạo là chắc chắn. Cao hơn nữa là lục độ, thập độ, bát nhã, tánh không… thì dành cho những bậc trí huệ cao, mình mà cao vọng ôm lấy thì kham không nổi. 



 Em ngước đôi mắt đẹp dịu hiền chiêm ngưỡng tôn tượng ngài Mục Kiền Liên rồi thắc mắc:

 - Em thấy tượng ngài Mục Kiền Liên và tượng ngài Địa Tạng Vương sao giống nhau quá, nếu hổng nhìn kỹ thì không phân biệt được.

 Y cũng chiêm ngưỡng tôn tượng không rời mắt, miệng đáp lời em:

 - Ừ, giống nhau thật đấy! về lý thì nói thì Phật Phật đạo đồng, đồng đức, đồng năng, đồng giải, đồng hành nên tướng chư Phật giống nhau, cạo tóc đắp y, tâm hình dị tục nên tướng giống nhau, tâm lượng hạnh nguyện đều phổ độ chúng sanh nên hình tướng giống nhau. Về sự mà nói thì do các nghệ nhân tạo tượng thường tạo theo cái biểu mẫu chung, căn cứ theo những đặc tính căn bản như: ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp…tranh tượng trong đạo Phật là mang tính biểu trưng chứ không phải tả chân. Có một điều em nên nhớ lấy, thời Phật còn tại thế Phật giáo chưa truyền đến Trung Hoa, vì thế chưa có Phật giáo bắc truyền. Các nghệ nhân tạo tượng khoác cho ngài Mục Kiền Liên chiếc áo cà sa tay rộng kiểu thức bắc truyền là không phù hợp, sở dĩ tượng như vậy là do các người tạo tượng là người Trung Hoa, họ đã Trung Hoa hoá tranh tượng Phật giáo. Người Việt mình chịu ảnh hưởng nặng nề văn hoá Trung Hoa nên nhiều thứ đều rập khuôn theo là vậy! 

 Anh cũng lưu ý em một điều nữa, người Tàu tạo tôn tượng ngài Di Lặc và tượng thần may mắn rất giống nhau, đều là hình tướng mập mạp, phốp pháp. Tượng ngài Di Lặc thì có sáu đứa trẻ vây quanh nhiễu loạn ( tượng trưng cho sáu căn), còn tượng thần may mắn thì một tay cầm thỏi vàng, tay kia cầm hốt ngọc hoặc xâu tiền. Người mình nhầm lẫn, đaị chúng đi chùa nhưng nhiều người cũng không phân biệt được, họ thỉnh về thờ nhưng không hiểu và không biết đâu là Phật Di Lặc đâu là thần may mắn. 

 Tiếng mõ giữ nhịp tụng đều đều, thỉnh thoảng tiếng chuông vang lên, đaị chúng rì rầm tụng kinh Vu Lan. Em laị nói:

 - Ngài Mục Kiền Liên chứng đắc A La Hán, thần thông đệ nhất sao laị khóc lóc một cách ủy mị như thế? có lẽ nào một vị A La Hán lậu hoặc đã tận mà còn vướng cái tình, dù là tình mẹ con để rồi khóc lóc aí, ố, kinh, cụ… như vậy?
 

 Y cũng từng nghe có ý kiến như thế và cũng từng tham vấn nhiều đạo hữu nhưng chưa thấy thỏa đáng. Kinh văn có thể bản gốc tiếng Phạn ( Pali hay Sancrit) không có hoặc không còn, bản tiếng Việt là dịch từ Hán tạng. Y trả lời cho em mà hình như cũng tự nói với lòng mình:

 - Có thể là biểu diễn theo thông thường của thế tục, chỉ là một cách diễn cho mọi người thấy lòng hiếu thảo và thuận theo cái lối của người thế gian. Một vị A La Hán làm gì còn đau khổ, khóc lóc đến như vậy!  Nhân đây anh cũng cho em biết thêm, những kinh “ Phá huyết đồ”, “Địa mẫu chơn kinh”, thuyết Mâu Tử ( cho Phật Thích Ca là tiền thân của Lão Tử, là người Trung Hoa) đều là ngụy kinh, là sự ngụy tạo của người Tàu. Chính đaị sư Ấn Quang ( người Trung Hoa) cũng cực lực phản đối và khuyên đồ chúng đừng đọc những kinh ấy, không xem những tà thuyết ấy!
  

 Lâu nay anh vẫn nghĩ em hời hợt, chỉ biết tu phước như đa số người đến chùa này, hôm nay thì anh ngạc nhiên quá! Em có sự quan sát khá sâu, thấy được những điều khác biệt ấy và điều này chứng tỏ em chịu đọc sách và có tu huệ, anh tự hào về em lắm! 

 Quý thầy vào trai đường thọ thực, ngoài sân các Phật tử và đồng hương được nhà chuà đãi bún riêu chay. Ai cũng khen bún ngon, tiếng trò chuyện huyên náo, nhiều người lăng xăng vừa ăn vừa lo phần đem về, trông khá luộm thuộm. Giữa tập thể đông như thế này bảo mọi người ăn trong chánh niệm quả thật là không thể, ngay cả khi kêu gọi mọi nguời giữ yên lặng, đừng đi laị lung tung lúc đang làm lễ mà mọi người còn chưa nghe huống chi là lúc ăn. Sân khấu dựng tạm bên sân chùa đang ầm ĩ ì xèo với các ca sĩ đang hát hò nhảy múa. Em phàn nàn với y:

 - Chùa chiền là chốn thanh tịnh, còn gọi là A lan nhã, sao laị rước ca sĩ về ca hát muá may làm rộn cả lên? 

 Y cười cười nửa đùa nửa thật:

 - Để chiêu dụ đồng hương đến chùa, để gây quỹ đó mà.

 Y thấy chữ phương tiện hiện nay đang bị làm dụng quá đáng, dùng để biện minh cho nhiều việc không đúng pháp. Nếu mọi người đến chùa vì có ca sĩ về, nếu không có ca sĩ thì họ không đến chùa sao? Xem ra thật đáng tiếc và nhà chùa cũng không nên chạy theo cái thị hiếu này, không thể làm việc này mà bảo vì “ Hằng thuận chúng sanh” được!
 

 Em ăn bún và trêu y:

 - Lễ Vu Lan này anh cầu gì?

 - Cầu nguyện là một mục quan trọng trong tôn giáo, Phật giáo cũng không ngoại lệ, tuy nhiên Phật giáo là tôn giáo của sự thật, tỉnh thức và rất khoa học. Trong Phật giáo không có sự cầu nguyện mê muội, không cầu nguyện để được tha thứ giải tội hay ban phước, cũng không thể cầu thăng quan phát tài…Cầu nguyện cho ông bà cha mẹ quá vãng siêu sanh Tịnh độ, cầu cha mẹ hiện tiền thân tâm an lạc, nương tựa tam bảo, gieo trồng phước điền, mở rộng hơn nữa thì cầu cho mọi người sống trong tình thương, tỉnh thức và trách nhiệm… tất nhiên mình là phàm phu, năng lực không có. Mình cầu bằng cả tấm lòng  chân thành, những gì mình cầu cũng là lòng hiếu của con cháu đối với ông bà cha mẹ mà thôi. 

 Em cười thật tươi:

 - Em trêu anh đó mà, em biết anh từ lâu lắm rồi, bởi vậy em mới theo anh về đây trẩy hội Vu Lan. 

 Vườn chùa mùa này không còn nhiều hoa như lúc xuân sang. Mùa Vu Lan là lúc gần hết hè, tuy vậy cây cỏ vẫn còn xanh biếc. Những tà áo dài tha thướt trong vườn chùa làm cho khu vườn như rực rỡ hơn. Mọi người quanh năm mãi lo cơm áo gạo tiền, đôi khi quên nghĩ đến ông bà cha mẹ, nay nhân về dự lễ Vu Lan, tâm hiếu của nhiều người được khơi dậy. Khá nhiều đôi mắt long lanh không cầm được nước nước mắt, khi buổi lễ nhắc đến công ơn của mẹ cha. Những gương mặt phút chốc trở nên đầy biểu cảm khi nụ hoa trắng cài trên ngực áo. 

 Giữa vùng trời ngoại phương bát ngát, tiếng đaị hồng chung bay lên, làn sóng âm lan toả khắp đất trời, trên cao vầng thái dương toả nắng vàng rực rỡ, bầu trời xanh thẳm và mây trắng thong dong vô tận. Y chợt nghĩ: “ Ngày xưa, khi ngài Mục Kiền Liên và mười phương tăng chú nguyện cho mẹ chắc trời cũng xanh như thế” muôn đời trời vẫn xanh và mây trắng vẫn thong dong. 

 Bất chợt một đàn ngỗng trời bay qua, chúng cất tiếng kêu ông ổng như tiếng vọi đồng, mọi người ngước nhìn, y và em cũng ngước nhìn lên, lòng y liên tưởng thần Càn Thát Bà tấu tiếng nhạc  để cúng dường thập phương chư Phật. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 08/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.