Hôm nay,  

Phước Phần Như Thế

24/10/202011:23:00(Xem: 5515)

 Nhác thấy bóng Thomas Le, nhiều người đang tíu tít ở sân chùa bỗng giạt ra. Nếu ai tinh ý một tí sẽ thấy cảnh tượng giống hệt như mặt nước có váng dầu, bỗng nhiên có gịot xà bông rơi vào. Nhiều người biết rõ thằng Thomas Le nhưng mắt ngó lơ, tưởng chừng như đang ngắm cảnh mà không thấy. Một nhóm khác túm tụm bàn tán xì xào vừa chỉ chỏ và liếc ngang liếc dọc. Bà Tư Hồng liếc xéo, nhướng mắt về hướng Thomas Le rồi xí một tiếng sắc như dao cạo.”

 - Đồ bê đê, đồ biến thái! 

 Những tiếng cười khúc khích hưởng ứng, những người xung quanh thêm mắm dặm muối cho câu chuyện thêm phần quái đản và nhiều phần gây nên ác cảm. Bà Bảy Hường chỉ Thomas:

 - Đồ laị cái, đã vậy còn cặp với Mỹ đen nữa chứ! tụi đó dơ dáy, lười biếng thấy mồ! Thằng này chắc thích cảm giác mạnh? 

 Một tràng cười khả ố tán thưởng bà Bảy Hường. Bà Hai Bông đang lặt rau cũng góp lời:

 - Ai đời laị cặp Mỹ đen, tụi nó nghèo mạt rệp, trên răng dưới dái. Tụi bê đê Việt, Mỹ trắng thiếu gì, sao hổng cặp laị cặp Mỹ đen? 

 Chị Tammy Le đang cắm hoa gần đấy, chị nghe tất cả, lòng buồn nhưng chẳng biết làm sao, đây cũng chẳng phải là lần đầu chị nghe người ta xỏ xiên con trai chị. Tuy cùng bổn đạo, cùng đi chùa, bình thường gặp mặt thì cũng chào hỏi nhưng quay lưng đi là xoi bói, bươi móc không tha. Chị nhiều lần khóc thầm vì những lời  ác ý dù là vô tâm hay hữu tâm ấy. Chị tập làm lơ nhưng không khỏi xót xa khi nghĩ đến con. Người ta bảo “ Cha mẹ sanh con trời sanh tánh”. Ai cũng muốn con mình khoẻ mạnh, thông minh, phát triển tốt. Đâu có ai mong con mình phải khác người, để rồi nhận lấy sự chê bai, kỳ thị! Phước phần mỗi người mỗi khác, cái nhân quá khứ khác nhau thì làm sao có cái quả đồng nhau được! Từ khi thằng Thomas dậy thì, chị đã phát hiện ra những dấu hiệu khác thường của nó, càng lớn thì càng lộ rõ. Chị chưa hề thấy nó có bạn gái hay cặp với cô nào, toàn là chơi với bọn con trai, thậm chí có lần chị còn thấy nó ôm bạn nó ngủ ở dưới basement, lúc đầu chị cũng tưởng là bạn bè thân thiết, nhưng sau đó thì chị biết rõ nó là gay. Chị bắt gặp nó hôn môi với thằng Andrew J. Chị đứng như trời trồng, không biết nói năng gì, cũng chẳng biết phải nên làm gì nữa. Những ngày sau đó không khí trong nhà nặng như đông đặc laị, nước mắt chị chảy ra không buồn lau. Tánh chị xưa nay hiền, lặng lẽ giờ càng lặng lẽ hơn. Chị thương con đứt ruột, không hề la hét nó bao giờ, giờ biết sự thật vậy thì lòng càng lo lắng cho tương lai của nó. Thằng Thomas thấy mẹ nó buồn, lòng nó cũng đau buồn lắm nhưng nó không thể sống khác được, sinh ra như thế thì làm sao có thể thay đổi được bây giờ? thấy mẹ nó đau khổ, nó cũng dằn vặt trong lòng lắm. Nó đâu có muốn thế, nó hoàn toàn không có cảm xúc gì với con gái, từ khi dậy thì nó chỉ rung động với con trai mà thôi. Nó vật vã mấy năm trời, cố che giấu thân phận, sợ bạn bè trong trường trêu chọc, sợ bị kỳ thị và bao nhiêu nỗi sợ không tên khác. Nó phải gồng lên, cố tỏ ra nam tính nhưng càng gồng, càng che dấu thì nỗi khao khát của tính dục thật sự laị càng cháy bỏng hơn. Cây kim giấu trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, mọi người phát hiện nó là gay, ban đầu nó cũng từ chối, dùng lý lẽ để biện minh nhưng cuối cùng nó phải đầu hàng và chấp nhận sự thật. Nó đã yêu một bạn trai cùng lớp, thằng đó cũng thương nó, khổ nỗi anh ta laị là Mỹ đen. Số phận thật trớ trêu, đã gay laị còn yêu Mỹ đen, Thomas phải chịu sự kỳ thị gấp hai lần từ những người cùng màu da và văn hoá với mình. Nhiều lúc Thomas muốn rủ Andrew J đi đến những tiểu bang ít người Việt để sinh sống, khổ nỗi nó thương mẹ, nó không muốn bỏ mẹ nó bơ vơ một mình. 

 Chị Tammy ở vậy nuôi Thomas từ khi nó mới lên năm. Năm ấy anh Henry Le về Việt Nam đầu tư làm ăn gì đấy, rồi cặp bồ và ở luôn ở bển không quay laị Mỹ nữa. Chị Tammy còn trẻ đẹp, nhiều người ngấp nghé muốn cặp bồ hay kết hôn nhưng chị từ chối cả. Chị sợ hôn nhân rồi, chị thương Thomas, dồn hết tình cảm cho nó nên không có hứng thú để đi bước nữa. Lúc rảnh rỗi chị lên chùa Hải Lượng để phụ giúp, chị là một trong những người có công lớn với chùa, kể từ khi mới tạo lập. Mỗi cuối tuần chị đều chở Thomas lên chùa để học tiếng Việt, tính sơ sơ mới mà đã hai mươi lăm năm rồi. Tuy cùng làm công quả nhưng cũng có người tâm địa hẹp hòi, đố kỵ, thấy chị siêng năng và gần gũi với thầy trụ trì nên phao tin chị có tình ý với thầy. Vụ việc gây đàm tiếu, thiếu điều chị muốn bỏ chùa luôn, cũng may sự việc sớm xẹp đi, lời nói vu vơ vô căn cứ ấy đã bị nhiều người thiệm tâm bác bỏ . 

 Phải nói là nhà bếp là nơi mệt nhất, nhiều lúc thầy cũng nhức đầu với các bà, phải phân giải, phải giảng hoà để giữ hoà khí. Chốn ấy luôn có lời qua tiếng laị, nói bóng gió, khen chê… đủ cả. Có khi mới tụng kinh xong, vừa hồi hướng ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, tứ hoằng thệ nguyện thuộc lòng như cháo chảy… ấy vậy mà vừa rời Phật điện, xuống đến bếp là lập tức có chuyện ngay: bà này nấu vụng, bà kia làm rối kế hoạch dự trù, bà nọ ăn rồi còn tham đùm túm mang về…

 Một hôm sau khoá lễ, Thomas quỳ thưa:

 - Bạch thầy, con sinh ra vốn đã vậy rồi, tất nhiên chẳng có ai muốn mình như thế cả! con vẫn sống tốt, chẳng hại ai bao giờ, thế mà mọi người vẫn kỳ thị, chê cười. Có người còn lịch sự, chỉ nói bóng gió sau lưng, nhưng cũng có người thô lỗ sỗ sàng lắm. Con có thể chịu đượng được nhưng họ làm cho mẹ con đau lòng, tuy cùng đi chùa nhưng lòng dạ laị nhỏ nhen, kỳ thị, phân biệt nặng nề. Thầy có phương cách gì giúp được chăng? 

 Cả Phật điện như ngưng đọng laị, mọi người hết sức ngạc nhiên, không ngờ thằng Thomas đi thẳng vào vấn đề mà không chút e dè sợ sệt như mọi ngày. Hoà thượng Thông Lý hơi ngần ngừ giây lát, sau đó từ tốn :

 - Phàm đã làm người là qúy lắm, còn việc mang thân nam, nữ hay gay ấy là do nghiệp lực và cái nhân trong quá khứ của mỗi người. Hiện tại là người nam, người nữ nhưng một mai hết số thì có chắc được laị thân người nữa không? Con người ta sanh ra, có ai muốn mình là gay hay lesbian đâu? nhưng phước phần như thế thì phải chịu thế. Tổ chưc y tế thế giới ( WHO) công nhận ấy là tự nhiên, chẳng phải bệnh. Đức giáo hoàng John Paul II cũng từng tuyên bố:” Tôi là ai mà có quyền phán xét” khi những thế lực cực đoan bảo thủ đòi ngài phải lên tiếng hay trừng phạt những người thuộc giới LGBT. Đương kim giáo hoàng Francicus cũng mới phát biểu cách đây không lâu, ngài kêu gọi:” Hãy yêu thương con cái của những người đồng tính”. Những lời trên không làm hài lòng giới bảo thủ cực đoan nhưng đã đem laị sự cởi mở hơn và đối xử nhân đạo hơn với những người thuộc LGBT. Con người ta thường có thói quen huà theo số đông, hễ ai khác với số đông thì lập tức kỳ thị, kỳ thị giới tính, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị giai cấp, kỳ thị quan điểm này nọ, kỳ thị cả những người không chịu kỳ thị như mình… Bây giờ giả sử đồng tính chiếm số đông, lúc bây giờ sẽ có kỳ thị ngược laị. Đây đích thực là một vấn đề vô minh của con. Chúng ta là những người tin Phật, học Phật, tu Phật hãy dùng từ bi, hiểu biết mà đối xử với nhau, đừng hành xử theo thói quen đám đông, hay theo cảm tính. Đức Phật từng dạy “ Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” vậy thì đàn ông, đàn bà, đồng tính, đen, trắng, Tây, Tàu… cũng đều bình đẳng với nhau cả! Mình kỳ thị, nói lời thô ác thì chính mình đang gây khẩu nghiệp xấu vậy.



 Đaị chúng im phăng phắc, chị Tammy cuối gằm mặt, không dám nhìn ai, tay lần tràng hạt. Thằng Thomas vẫn quỳ Đấy, khi hoà thượng ngưng nghỉ một lát, nó laị thưa:

 - Bạch thầy, con biết mình là gay, dù con chẳng đụng chạm ai, vậy mà vẫn bị chửi, cả bạn trai của con cũng bị chửi lây. Con yêu ai là do trái tim con sai xử, bạn trai con da đen nhưng cái tâm sáng. Những người kỳ thị kia chắc gì họ ngon lành hơn những người da đen? 

 Hoà thượng Thông Lý ôn tồn:

 - Vấn đề này có đã lâu, khá phổ biến chứ không chỉ mỗi trường hợp của con. Người Việt mình vốn có tánh kỳ thị nặng, vừa tự tôn ( kiểu Tàu, ta là văn minh còn xung quanh là man di mọi rợ, Chà , Chiêm, Miên, Chiệc, mọi, thượng) vừa tự ti nhược tiểu, xun xoe với Mỹ trắng, kỳ thị với Mỹ đen… quả thật vô lý hết sức! hàng tuần đi chùa, đi nhà thờ, đọc kinh làu làu vậy mà chẳng áp dụng được giáo lý vào thực tế. Chúng ta con nhà Phật, ắt ai cũng biết câu: ” Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành” ấy vậy mà laị kỳ thị, xúc phạm nói lời thô ác với người da đen. Mình đến xứ này, ít nhiều cũng bị sự kỳ thị của người da trắng, lẽ ra mình phải thông cảm với người da đen mới phải, đằng này laị kỳ thị họ. Chính người da đen đã đấu tranh đòi bình đẳng, chúng ta đã hưởng lợi dù là trực tiếp hay gián tiếp từ những phong trào đấu tranh vì nhân quyền ấy. Người da đen cũng như mọi sắc dân khác, ai cũng có những tính xấu của mình. Người Việt mình cũng khôn lỏi, tàn haị nhau có kém ai. Hai mưới lăm thế kỷ trước, đức Phật đã không chấp nhận sự kỳ thị, phân biệt. Ngài từng nói:” Không có giai cấp trong giòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn” . Hôm nay đã là thế kỷ hai mươi mốt rồi, lẽ nào chúng ta laị kỳ thị, phân biệt, chúng ta lạc hậu quá! Mọi người cũng nên cẩn thận, ở xứ sở này luật chống kỳ thị rất hữu hiệu, không chừng sẽ rắc rối với pháp luật! thực tình mà nói, chúng ta hưởng lợi lớn từ những phong trào đấu tranh đòi bình đẳng, nhân quyền của người da đen, giả sử không có sự dấn thân của Martin Lutherking và các phong trào đấu tranh ấy, liệu ta có sống dễ dàng với những thành phần da trắng tự xưng thượng đẳng hay những thành phần cực đoan khác? 

 Đaị chúng lao xao, nhiều tiếng xì xào nho nhỏ, có người tỏ vẻ không đồng tình với thầy. Chị Betty T giơ tay phát biểu: 

 - Thầy ơi, tuị con làm nails phải chịu cay đắng với tụi nó lắm, tụi nó tham lam, khó chịu, làm xong quỵt tiền, ăn vạ… rồi cướp giật bóp xách…

 Hoà thượng gật đầu:

 - Đúng thế, đúng là có những việc đó, nhưng không phải tất cả, đó cũng là một đặc tính xấu. Đôi khi mình có thiệt hại một chút nhưng cơ bản là tất cả mọi người bình đẳng với nhau. Mình là Phật tử đi chùa, thờ Phật, lễ Phật thì phải biết áp dụng giáo lý vào cuộc sống, nếu chỉ đọc kinh suông thì chẳng ích gì. Bản tánh vốn khó thay đổi nhưng mỗi ngày mình phải sửa một chút, hôm nay tốt hơn hôm qua, ngày mai tốt hơn ngày nay ấy chính là biết tu, biết học vậy! Mình đừng kỳ thị, đừng nói những lời gây ác cảm hay đau khổ cho kẻ khác. Đức Dalai Lama dạy:” Nếu mình không giúp được ai thì chí ít mình cũng đừng gây tổn thương cho người khác”. Mình làm tốt, nói tốt, nghĩ tốt cho người khác cũng chính là tạo tác hậu phước tốt cho chính bản thân mình. Thưa đaị chúng thân thương của chùa Hải Lượng, chúng ta gắn bó với nhau hơn mấy mươi năm nay rồi, có không ít người đã ra đi vĩnh viễn, rồi mai đây ai còn ai mất cũng khó mà biết trước được, điều biết chắc chắn là ai rồi cũng phải ra đi. Trước khi mình ra đi thì hãy chuẩn bị chút ít tư lương, nếu ra đi mà không có chút thiện nghiệp nào thì nguy lắm! Các vị có dám hứa với thầy từ bây giờ không nói những lời kỳ thị gây chia rẽ hay đau lòng người? 

 Thầy dứt lời thì đaị chúng đồng loạt giơ tay. Hoà thượng nhìn Thomas với ánh mắt từ bi thông cảm, thầy nói với Thomas mà hình như cũng nhắn nhủ chung với mọi người:

 - Thầy là người xuất gia nên không có phương pháp hay lời khuyên gì với việc thế sự. Thầy chỉ có thể bảo con là cứ sống tự tin ở bản thân mình, không việc gì phải mặc cảm, nghiệp của con thì con chịu nhưng con có thể sửa và chuyển đổi nghiệp, hãy tạo thiện nghiệp để dần dần chuyển hoá nghiệp xấu, biết chuyển nghiệp thì nghiệp xấu sẽ dần dần thành tốt, nghiệp ác sẽ dần dần thành thiện, chuyển bằng cách nào? Mình phải giữ những giới cấm của người Phật tử, làm việc thiện lành. Việc này giống như mình cứ thêm nước tinh khiết vào ly nước mặn, đến một lúc nào đó thì ly nước mặn kia sẽ bớt mặn hoặc hết mặn. Con cứ sống thật với bản thân con, thầy biết có nhiều người trong xã hội che giấu thân phận bằng cách lấy vợ, lấy chồng nhưng vẫn lén lút quan hệ với những người đàn ông hay đàn bà khác. Họ đang tự làm khổ chính họ và làm khổ những người thân chung quanh, điều đó quả thật tệ. 

 Chị Tammy như cởi bỏ được cái gánh nặng u uất trong lòng bấy lâu nay, vẻ mặt dường như tươi sáng hơn, những nét u ám tan bớt, vẻ u sầu cũng vơi đi rất nhiều. Thằng Thomas lạy tạ ơn thầy. 

 Trai đường im lặng trong lúc thọ thực đầy không khí chánh niệm, dường như mọi người chăm chú vào món ăn hơn mọi ngày. Thằng Andrew J, bạn trai của Thomas cũng tập ăn bằng đũa, thỉnh thoảng nó theo Thomas đến chùa, nó không biết gì về đạo Phật nhưng vì thương thằng Thomas nên lẽo đẽo theo. Thomas cũng giải thích cho nó biết chút ít về đạo Phật, điều nó phấn khởi và tin tưởng nhất ở điểm: Đạo Phật không có lên án, kết tội hay nguyền rủa trừng phạt ai cả, kể cả vấn đề LGBT. Đạo Phật dạy nhân quả, gieo gì gặt nấy, nhân nào quả nấy, tâm tưởng sự thành… điều này cũng có điểm tương ưng với văn hoá Mỹ. Văn hoá Mỹ có những câu như:” What goes around come around”, “ Karma is the coner”, “ You are what you think”… Andrew J càng tâm đắc hơn khi thầy nói với nó:” Quá khứ, hiện tại và tương lai kết nối bằng những tác ý thiện hay bất thiện”. Ông Phật không phải là thần thánh, không có quyền ban phước hay giáng hoạ cho ai cả. Mọi người phải tự chịu trách nhiệm với bản thân mình. Sau bữa ăn trưa, thằng Andrew J hỏi Thomas: 

 - Honey, sao mày lạy ông thầy tu ấy? ông ấy cũng chỉ là thầy tu chứ có phải thượng đế hay thánh thần! 

 Thomas nhìn nó trìu mến:

 - Lạy ở đây là lạy cái bản thể thanh tịnh, từ bi, trí huệ, tỉnh thức của ông thầy chứ không phải lạy cái xác thịt! lạy là thể hiện sự tôn kính nhất vừa buông bỏ cái tôi vốn to như núi của mình. 

 Thằng Andrew J theo Thomas đến chùa, giờ gió cũng ghiền phở chay và chả giò rán giòn, nó còn biết ăn đậu hũ chiên và cả tương chao. Mấy người ngồi cạnh Andrew J trêu: 

 - Mày cưới thằng Thomas đi, nó sẽ làm chả giò, phở chay cho mày ăn thả giàn luôn! 

 Nó cười mỉm nhìn Thomas nồng nàn, tỏ vẻ thích thú với lời trêu đùa đó. Dường như lời pháp của hoà thượng đã có tác động đến mọi người, hôm nay ai cũng tỏ vẻ thân thiện hơn với Thomas và bạn trai của nó. Cô Ba Bụng, chị Chín Cải đến ôm nó và thằng Andrew J:

 - Vui vẻ sống nha em, mạnh mẽ và tự tin! 


Ất Lăng thành, 10/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.