Hôm nay,  

Phước Phần Như Thế

24/10/202011:23:00(Xem: 5059)

 Nhác thấy bóng Thomas Le, nhiều người đang tíu tít ở sân chùa bỗng giạt ra. Nếu ai tinh ý một tí sẽ thấy cảnh tượng giống hệt như mặt nước có váng dầu, bỗng nhiên có gịot xà bông rơi vào. Nhiều người biết rõ thằng Thomas Le nhưng mắt ngó lơ, tưởng chừng như đang ngắm cảnh mà không thấy. Một nhóm khác túm tụm bàn tán xì xào vừa chỉ chỏ và liếc ngang liếc dọc. Bà Tư Hồng liếc xéo, nhướng mắt về hướng Thomas Le rồi xí một tiếng sắc như dao cạo.”

 - Đồ bê đê, đồ biến thái! 

 Những tiếng cười khúc khích hưởng ứng, những người xung quanh thêm mắm dặm muối cho câu chuyện thêm phần quái đản và nhiều phần gây nên ác cảm. Bà Bảy Hường chỉ Thomas:

 - Đồ laị cái, đã vậy còn cặp với Mỹ đen nữa chứ! tụi đó dơ dáy, lười biếng thấy mồ! Thằng này chắc thích cảm giác mạnh? 

 Một tràng cười khả ố tán thưởng bà Bảy Hường. Bà Hai Bông đang lặt rau cũng góp lời:

 - Ai đời laị cặp Mỹ đen, tụi nó nghèo mạt rệp, trên răng dưới dái. Tụi bê đê Việt, Mỹ trắng thiếu gì, sao hổng cặp laị cặp Mỹ đen? 

 Chị Tammy Le đang cắm hoa gần đấy, chị nghe tất cả, lòng buồn nhưng chẳng biết làm sao, đây cũng chẳng phải là lần đầu chị nghe người ta xỏ xiên con trai chị. Tuy cùng bổn đạo, cùng đi chùa, bình thường gặp mặt thì cũng chào hỏi nhưng quay lưng đi là xoi bói, bươi móc không tha. Chị nhiều lần khóc thầm vì những lời  ác ý dù là vô tâm hay hữu tâm ấy. Chị tập làm lơ nhưng không khỏi xót xa khi nghĩ đến con. Người ta bảo “ Cha mẹ sanh con trời sanh tánh”. Ai cũng muốn con mình khoẻ mạnh, thông minh, phát triển tốt. Đâu có ai mong con mình phải khác người, để rồi nhận lấy sự chê bai, kỳ thị! Phước phần mỗi người mỗi khác, cái nhân quá khứ khác nhau thì làm sao có cái quả đồng nhau được! Từ khi thằng Thomas dậy thì, chị đã phát hiện ra những dấu hiệu khác thường của nó, càng lớn thì càng lộ rõ. Chị chưa hề thấy nó có bạn gái hay cặp với cô nào, toàn là chơi với bọn con trai, thậm chí có lần chị còn thấy nó ôm bạn nó ngủ ở dưới basement, lúc đầu chị cũng tưởng là bạn bè thân thiết, nhưng sau đó thì chị biết rõ nó là gay. Chị bắt gặp nó hôn môi với thằng Andrew J. Chị đứng như trời trồng, không biết nói năng gì, cũng chẳng biết phải nên làm gì nữa. Những ngày sau đó không khí trong nhà nặng như đông đặc laị, nước mắt chị chảy ra không buồn lau. Tánh chị xưa nay hiền, lặng lẽ giờ càng lặng lẽ hơn. Chị thương con đứt ruột, không hề la hét nó bao giờ, giờ biết sự thật vậy thì lòng càng lo lắng cho tương lai của nó. Thằng Thomas thấy mẹ nó buồn, lòng nó cũng đau buồn lắm nhưng nó không thể sống khác được, sinh ra như thế thì làm sao có thể thay đổi được bây giờ? thấy mẹ nó đau khổ, nó cũng dằn vặt trong lòng lắm. Nó đâu có muốn thế, nó hoàn toàn không có cảm xúc gì với con gái, từ khi dậy thì nó chỉ rung động với con trai mà thôi. Nó vật vã mấy năm trời, cố che giấu thân phận, sợ bạn bè trong trường trêu chọc, sợ bị kỳ thị và bao nhiêu nỗi sợ không tên khác. Nó phải gồng lên, cố tỏ ra nam tính nhưng càng gồng, càng che dấu thì nỗi khao khát của tính dục thật sự laị càng cháy bỏng hơn. Cây kim giấu trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, mọi người phát hiện nó là gay, ban đầu nó cũng từ chối, dùng lý lẽ để biện minh nhưng cuối cùng nó phải đầu hàng và chấp nhận sự thật. Nó đã yêu một bạn trai cùng lớp, thằng đó cũng thương nó, khổ nỗi anh ta laị là Mỹ đen. Số phận thật trớ trêu, đã gay laị còn yêu Mỹ đen, Thomas phải chịu sự kỳ thị gấp hai lần từ những người cùng màu da và văn hoá với mình. Nhiều lúc Thomas muốn rủ Andrew J đi đến những tiểu bang ít người Việt để sinh sống, khổ nỗi nó thương mẹ, nó không muốn bỏ mẹ nó bơ vơ một mình. 

 Chị Tammy ở vậy nuôi Thomas từ khi nó mới lên năm. Năm ấy anh Henry Le về Việt Nam đầu tư làm ăn gì đấy, rồi cặp bồ và ở luôn ở bển không quay laị Mỹ nữa. Chị Tammy còn trẻ đẹp, nhiều người ngấp nghé muốn cặp bồ hay kết hôn nhưng chị từ chối cả. Chị sợ hôn nhân rồi, chị thương Thomas, dồn hết tình cảm cho nó nên không có hứng thú để đi bước nữa. Lúc rảnh rỗi chị lên chùa Hải Lượng để phụ giúp, chị là một trong những người có công lớn với chùa, kể từ khi mới tạo lập. Mỗi cuối tuần chị đều chở Thomas lên chùa để học tiếng Việt, tính sơ sơ mới mà đã hai mươi lăm năm rồi. Tuy cùng làm công quả nhưng cũng có người tâm địa hẹp hòi, đố kỵ, thấy chị siêng năng và gần gũi với thầy trụ trì nên phao tin chị có tình ý với thầy. Vụ việc gây đàm tiếu, thiếu điều chị muốn bỏ chùa luôn, cũng may sự việc sớm xẹp đi, lời nói vu vơ vô căn cứ ấy đã bị nhiều người thiệm tâm bác bỏ . 

 Phải nói là nhà bếp là nơi mệt nhất, nhiều lúc thầy cũng nhức đầu với các bà, phải phân giải, phải giảng hoà để giữ hoà khí. Chốn ấy luôn có lời qua tiếng laị, nói bóng gió, khen chê… đủ cả. Có khi mới tụng kinh xong, vừa hồi hướng ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, tứ hoằng thệ nguyện thuộc lòng như cháo chảy… ấy vậy mà vừa rời Phật điện, xuống đến bếp là lập tức có chuyện ngay: bà này nấu vụng, bà kia làm rối kế hoạch dự trù, bà nọ ăn rồi còn tham đùm túm mang về…

 Một hôm sau khoá lễ, Thomas quỳ thưa:

 - Bạch thầy, con sinh ra vốn đã vậy rồi, tất nhiên chẳng có ai muốn mình như thế cả! con vẫn sống tốt, chẳng hại ai bao giờ, thế mà mọi người vẫn kỳ thị, chê cười. Có người còn lịch sự, chỉ nói bóng gió sau lưng, nhưng cũng có người thô lỗ sỗ sàng lắm. Con có thể chịu đượng được nhưng họ làm cho mẹ con đau lòng, tuy cùng đi chùa nhưng lòng dạ laị nhỏ nhen, kỳ thị, phân biệt nặng nề. Thầy có phương cách gì giúp được chăng? 

 Cả Phật điện như ngưng đọng laị, mọi người hết sức ngạc nhiên, không ngờ thằng Thomas đi thẳng vào vấn đề mà không chút e dè sợ sệt như mọi ngày. Hoà thượng Thông Lý hơi ngần ngừ giây lát, sau đó từ tốn :

 - Phàm đã làm người là qúy lắm, còn việc mang thân nam, nữ hay gay ấy là do nghiệp lực và cái nhân trong quá khứ của mỗi người. Hiện tại là người nam, người nữ nhưng một mai hết số thì có chắc được laị thân người nữa không? Con người ta sanh ra, có ai muốn mình là gay hay lesbian đâu? nhưng phước phần như thế thì phải chịu thế. Tổ chưc y tế thế giới ( WHO) công nhận ấy là tự nhiên, chẳng phải bệnh. Đức giáo hoàng John Paul II cũng từng tuyên bố:” Tôi là ai mà có quyền phán xét” khi những thế lực cực đoan bảo thủ đòi ngài phải lên tiếng hay trừng phạt những người thuộc giới LGBT. Đương kim giáo hoàng Francicus cũng mới phát biểu cách đây không lâu, ngài kêu gọi:” Hãy yêu thương con cái của những người đồng tính”. Những lời trên không làm hài lòng giới bảo thủ cực đoan nhưng đã đem laị sự cởi mở hơn và đối xử nhân đạo hơn với những người thuộc LGBT. Con người ta thường có thói quen huà theo số đông, hễ ai khác với số đông thì lập tức kỳ thị, kỳ thị giới tính, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị giai cấp, kỳ thị quan điểm này nọ, kỳ thị cả những người không chịu kỳ thị như mình… Bây giờ giả sử đồng tính chiếm số đông, lúc bây giờ sẽ có kỳ thị ngược laị. Đây đích thực là một vấn đề vô minh của con. Chúng ta là những người tin Phật, học Phật, tu Phật hãy dùng từ bi, hiểu biết mà đối xử với nhau, đừng hành xử theo thói quen đám đông, hay theo cảm tính. Đức Phật từng dạy “ Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” vậy thì đàn ông, đàn bà, đồng tính, đen, trắng, Tây, Tàu… cũng đều bình đẳng với nhau cả! Mình kỳ thị, nói lời thô ác thì chính mình đang gây khẩu nghiệp xấu vậy.



 Đaị chúng im phăng phắc, chị Tammy cuối gằm mặt, không dám nhìn ai, tay lần tràng hạt. Thằng Thomas vẫn quỳ Đấy, khi hoà thượng ngưng nghỉ một lát, nó laị thưa:

 - Bạch thầy, con biết mình là gay, dù con chẳng đụng chạm ai, vậy mà vẫn bị chửi, cả bạn trai của con cũng bị chửi lây. Con yêu ai là do trái tim con sai xử, bạn trai con da đen nhưng cái tâm sáng. Những người kỳ thị kia chắc gì họ ngon lành hơn những người da đen? 

 Hoà thượng Thông Lý ôn tồn:

 - Vấn đề này có đã lâu, khá phổ biến chứ không chỉ mỗi trường hợp của con. Người Việt mình vốn có tánh kỳ thị nặng, vừa tự tôn ( kiểu Tàu, ta là văn minh còn xung quanh là man di mọi rợ, Chà , Chiêm, Miên, Chiệc, mọi, thượng) vừa tự ti nhược tiểu, xun xoe với Mỹ trắng, kỳ thị với Mỹ đen… quả thật vô lý hết sức! hàng tuần đi chùa, đi nhà thờ, đọc kinh làu làu vậy mà chẳng áp dụng được giáo lý vào thực tế. Chúng ta con nhà Phật, ắt ai cũng biết câu: ” Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành” ấy vậy mà laị kỳ thị, xúc phạm nói lời thô ác với người da đen. Mình đến xứ này, ít nhiều cũng bị sự kỳ thị của người da trắng, lẽ ra mình phải thông cảm với người da đen mới phải, đằng này laị kỳ thị họ. Chính người da đen đã đấu tranh đòi bình đẳng, chúng ta đã hưởng lợi dù là trực tiếp hay gián tiếp từ những phong trào đấu tranh vì nhân quyền ấy. Người da đen cũng như mọi sắc dân khác, ai cũng có những tính xấu của mình. Người Việt mình cũng khôn lỏi, tàn haị nhau có kém ai. Hai mưới lăm thế kỷ trước, đức Phật đã không chấp nhận sự kỳ thị, phân biệt. Ngài từng nói:” Không có giai cấp trong giòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn” . Hôm nay đã là thế kỷ hai mươi mốt rồi, lẽ nào chúng ta laị kỳ thị, phân biệt, chúng ta lạc hậu quá! Mọi người cũng nên cẩn thận, ở xứ sở này luật chống kỳ thị rất hữu hiệu, không chừng sẽ rắc rối với pháp luật! thực tình mà nói, chúng ta hưởng lợi lớn từ những phong trào đấu tranh đòi bình đẳng, nhân quyền của người da đen, giả sử không có sự dấn thân của Martin Lutherking và các phong trào đấu tranh ấy, liệu ta có sống dễ dàng với những thành phần da trắng tự xưng thượng đẳng hay những thành phần cực đoan khác? 

 Đaị chúng lao xao, nhiều tiếng xì xào nho nhỏ, có người tỏ vẻ không đồng tình với thầy. Chị Betty T giơ tay phát biểu: 

 - Thầy ơi, tuị con làm nails phải chịu cay đắng với tụi nó lắm, tụi nó tham lam, khó chịu, làm xong quỵt tiền, ăn vạ… rồi cướp giật bóp xách…

 Hoà thượng gật đầu:

 - Đúng thế, đúng là có những việc đó, nhưng không phải tất cả, đó cũng là một đặc tính xấu. Đôi khi mình có thiệt hại một chút nhưng cơ bản là tất cả mọi người bình đẳng với nhau. Mình là Phật tử đi chùa, thờ Phật, lễ Phật thì phải biết áp dụng giáo lý vào cuộc sống, nếu chỉ đọc kinh suông thì chẳng ích gì. Bản tánh vốn khó thay đổi nhưng mỗi ngày mình phải sửa một chút, hôm nay tốt hơn hôm qua, ngày mai tốt hơn ngày nay ấy chính là biết tu, biết học vậy! Mình đừng kỳ thị, đừng nói những lời gây ác cảm hay đau khổ cho kẻ khác. Đức Dalai Lama dạy:” Nếu mình không giúp được ai thì chí ít mình cũng đừng gây tổn thương cho người khác”. Mình làm tốt, nói tốt, nghĩ tốt cho người khác cũng chính là tạo tác hậu phước tốt cho chính bản thân mình. Thưa đaị chúng thân thương của chùa Hải Lượng, chúng ta gắn bó với nhau hơn mấy mươi năm nay rồi, có không ít người đã ra đi vĩnh viễn, rồi mai đây ai còn ai mất cũng khó mà biết trước được, điều biết chắc chắn là ai rồi cũng phải ra đi. Trước khi mình ra đi thì hãy chuẩn bị chút ít tư lương, nếu ra đi mà không có chút thiện nghiệp nào thì nguy lắm! Các vị có dám hứa với thầy từ bây giờ không nói những lời kỳ thị gây chia rẽ hay đau lòng người? 

 Thầy dứt lời thì đaị chúng đồng loạt giơ tay. Hoà thượng nhìn Thomas với ánh mắt từ bi thông cảm, thầy nói với Thomas mà hình như cũng nhắn nhủ chung với mọi người:

 - Thầy là người xuất gia nên không có phương pháp hay lời khuyên gì với việc thế sự. Thầy chỉ có thể bảo con là cứ sống tự tin ở bản thân mình, không việc gì phải mặc cảm, nghiệp của con thì con chịu nhưng con có thể sửa và chuyển đổi nghiệp, hãy tạo thiện nghiệp để dần dần chuyển hoá nghiệp xấu, biết chuyển nghiệp thì nghiệp xấu sẽ dần dần thành tốt, nghiệp ác sẽ dần dần thành thiện, chuyển bằng cách nào? Mình phải giữ những giới cấm của người Phật tử, làm việc thiện lành. Việc này giống như mình cứ thêm nước tinh khiết vào ly nước mặn, đến một lúc nào đó thì ly nước mặn kia sẽ bớt mặn hoặc hết mặn. Con cứ sống thật với bản thân con, thầy biết có nhiều người trong xã hội che giấu thân phận bằng cách lấy vợ, lấy chồng nhưng vẫn lén lút quan hệ với những người đàn ông hay đàn bà khác. Họ đang tự làm khổ chính họ và làm khổ những người thân chung quanh, điều đó quả thật tệ. 

 Chị Tammy như cởi bỏ được cái gánh nặng u uất trong lòng bấy lâu nay, vẻ mặt dường như tươi sáng hơn, những nét u ám tan bớt, vẻ u sầu cũng vơi đi rất nhiều. Thằng Thomas lạy tạ ơn thầy. 

 Trai đường im lặng trong lúc thọ thực đầy không khí chánh niệm, dường như mọi người chăm chú vào món ăn hơn mọi ngày. Thằng Andrew J, bạn trai của Thomas cũng tập ăn bằng đũa, thỉnh thoảng nó theo Thomas đến chùa, nó không biết gì về đạo Phật nhưng vì thương thằng Thomas nên lẽo đẽo theo. Thomas cũng giải thích cho nó biết chút ít về đạo Phật, điều nó phấn khởi và tin tưởng nhất ở điểm: Đạo Phật không có lên án, kết tội hay nguyền rủa trừng phạt ai cả, kể cả vấn đề LGBT. Đạo Phật dạy nhân quả, gieo gì gặt nấy, nhân nào quả nấy, tâm tưởng sự thành… điều này cũng có điểm tương ưng với văn hoá Mỹ. Văn hoá Mỹ có những câu như:” What goes around come around”, “ Karma is the coner”, “ You are what you think”… Andrew J càng tâm đắc hơn khi thầy nói với nó:” Quá khứ, hiện tại và tương lai kết nối bằng những tác ý thiện hay bất thiện”. Ông Phật không phải là thần thánh, không có quyền ban phước hay giáng hoạ cho ai cả. Mọi người phải tự chịu trách nhiệm với bản thân mình. Sau bữa ăn trưa, thằng Andrew J hỏi Thomas: 

 - Honey, sao mày lạy ông thầy tu ấy? ông ấy cũng chỉ là thầy tu chứ có phải thượng đế hay thánh thần! 

 Thomas nhìn nó trìu mến:

 - Lạy ở đây là lạy cái bản thể thanh tịnh, từ bi, trí huệ, tỉnh thức của ông thầy chứ không phải lạy cái xác thịt! lạy là thể hiện sự tôn kính nhất vừa buông bỏ cái tôi vốn to như núi của mình. 

 Thằng Andrew J theo Thomas đến chùa, giờ gió cũng ghiền phở chay và chả giò rán giòn, nó còn biết ăn đậu hũ chiên và cả tương chao. Mấy người ngồi cạnh Andrew J trêu: 

 - Mày cưới thằng Thomas đi, nó sẽ làm chả giò, phở chay cho mày ăn thả giàn luôn! 

 Nó cười mỉm nhìn Thomas nồng nàn, tỏ vẻ thích thú với lời trêu đùa đó. Dường như lời pháp của hoà thượng đã có tác động đến mọi người, hôm nay ai cũng tỏ vẻ thân thiện hơn với Thomas và bạn trai của nó. Cô Ba Bụng, chị Chín Cải đến ôm nó và thằng Andrew J:

 - Vui vẻ sống nha em, mạnh mẽ và tự tin! 


Ất Lăng thành, 10/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.