Hôm nay,  

Ghè Gốm Gò Chàm

30/04/202114:06:00(Xem: 4479)
VANG HOI
Vàng Hời.(hình minh họa - nguồn: https://kenh14.vn)

Thằng Đẹn lùa bò về đến sân, giọng hấp tấp

- Má, ba đâu?

Bà Tư Đàm, má Đẹn đang ngồi nhổ cải non sẵng giọng

- Gì mà hóng hớt vậy Đẹn? Ổng mới tưới nước mấy giồng rau đây, hổng biết đi đâu nữa? Hổng chừng ổng đan lợp ở sân cát!

Đẹn không trả lời bà Tư Đàm mà chạy tọt vào nhà, đến sân cát 

- Ba, con mới thấy một mạch đá ong đỏ chót và dài lắm. Con cào cào sơ lớp đất mặt và vạch bụi cây cùm rụm là lộ thiên.

Ông Thảnh tỏ vẻ hoài nghi

- Mầy nói giỡn hay nói chơi? Tao thả bò ở gò Chàm từ hồi mười tuổi, có bao giờ thấy đá ong ở đó đâu!

- Thiệt mà ba, con đâu có giỡn, con thấy tận mắt đá ong đỏ roi rói luôn.

Ông Thảnh buông cái lợp đang dở xuống, đứng dậy ra sân vác cây xà beng rồi bảo Đẹn

- Mầy dắt tao ra đó xem thử, đá ong chỗ nào?

Đẹn lấp sấp đi trước, miệng huyên thuyên không ngớt về sự phát hiện mạch đá ong. Nó có vẻ tự hào như là một phát kiến lớn, mà không chừng lớn thiệt. Dân quanh vùng bao đời nay có ai thấy đá ong ở gò Chàm bao giờ. 

Gò Chàm nằm sau lưng chùa Ngọc Thạnh, rộng mênh mông, ùm tùm bụi lùm dú dẻ, dành dành, cơm nguội… nhưng nhiều nhất vẫn là cây xương rồng. Xương rồng gò Chàm trông giống như cái vợt ping pong, lại như cái quạt nan, gai tua tủa. Xương rồng ngỡ vô dụng nhưng sau khi trảy hết gai có thể cho bò ăn, nhìn xương rồng ai cũng ngỡ khô cằn nhưng nào ngờ lại mọng nước. Nó chắt chiu nước từ đất gò, ngậm sương đêm để hút nước vào thân, uống những giọt nước mưa ít ỏi để tích tụ mà duy trì sự sống, cuộc sống rất khô khan ở cái vùng đầy nắng gió này. Xương rồng như những cư dân ở đây, luôn phòng thủ và để giành. Xương rồng trông gai góc khó gần, khó ưa nhưng lại nở những bông hoa đỏ hoặc vàng khá đẹp mắt, trái của nó chua chua ngọt vị giống như thanh long và kiwi. Có ai đó bảo rằng, thanh long cũng là họ của xương rồng mà thôi! Gò Chàm đầy xương rồng, nơi thả bò của dân làng Ngọc Thạnh, An Sơn, Quy Hội… Thằng Đẹn kéo tay ông Thảnh lại gần bụi cùm rụm mà nó vạch lúc sáng. Ông Thảnh dùng xà beng xắn mấy gốc cùm rụm, dú dẻ giạt ra, nền đá ong thấy rõ ràng. Ông cào đến đâu thì đá ong lộ ra đến đó, tiếp tục cào và lẩm bẩm

- Cái vỉa đá ong này lớn lắm, trúng mánh rồi con ơi!

Sáng sớm hôm sau, ông Thảnh, thằng Đẹn cùng anh Bảy Thạch, anh Tám Tòng kéo ra gò Chàm chẻ đá. Đục đá ong để bán vốn là nghề lâu nay của làng Ngọc Thạnh, đá ong dùng để xây móng, xây tường, xây chuồng heo...Những giếng nước bọc đá ong, nước trong vắt và uống ngọt hơn giếng bộng xi măng. Những viên đá ong hình chữ nhật, dài cỡ ba gang tay, dày một gang tay, được đẽo bằng mũi de và búa. Suốt ngày hôm đó, nhóm ông Thảnh đẽo được năm mươi viên đá ong. Ông Thảnh nói chưa khi nào đục đá ong dễ như thế! Vỉa đá ong gần như lộ thiên, bề ngang chừng mười thước, còn chiều dài và độ sâu thì chưa biết bao nhiêu, chỉ ước chừng rất dài và sâu.

Tháng rồi ông Thảnh sắm được hai chỉ vàng, sau khi trả công thợ và những chi phí cho việc đẽo đá ong. Mấy nhóm thợ các làng khác hay tin nên bắt đầu đổ về gò Chàm. Gò Chàm tịch mịch vắng vẻ bao đời nay, giờ xôn xao như một công trường. Nhóm thợ Bảy Thao, Chín Tửng… đua nhau xí phần, tiếng đục đẽo đá chí chát đập vỡ sự tĩnh mịch gò Chàm. Giấc xế, nghỉ tay uống nước ăn vặt, Hai Thảnh nói

- Mình làm đầy chuyến xe bò này nữa rồi nghỉ, hôm nay coi như đủ sở hụi!

Lúc mọi người nghỉ giải lao, thằng Đẹn đi loanh quanh lục lạo tìm kiếm xung quanh. Tánh Đẹn hồi nào đến giờ vẫn vậy, thích tò mò, sục xạo, cái gì ngộ ngộ là nó tìm hiểu cho ra lẽ mới thôi! Đột nhiên nó quỳ trên mặt đất, hai tay cào bới quanh cái miệng tròn tròn, có lẽ cái ghè hay cái hũ chi đó. Sau khi biết chắc là cái ghè, Đẹn kêu toáng lên

- Ba ơi, lại đây coi cái này nè!

Ông Thảnh quở

- Cái thằng tánh như con nít, việc gì mà um sùm vậy Đẹn?

Nói thì nói nhưng Hai Thảnh cũng đi đến chỗ thằng Đẹn, nhìn thấy cái ghè bằng đất nung nửa chìm nửa lộ từ mặt đất. Ông Thảnh giật mình, linh tính cho biết đây không phải là chuyện tầm phào, Ông ngồi xuống lấy tay bụm miệng thằng Đẹn, thì thầm

- Đừng la lớn kẻo người ta biết!

Ông Thảnh moi thêm một tí nữa là lôi được cái ghè lên, không biết nó nằm trong đất bao lâu mà màu gốm vẫn đỏ au như mới nung, cái nùi bịt miệng ghè hổng biết bằng gì, vừa giống như gỗ lại giồng như vải nhưng đã hóa thạch cứng như cục san hô. Hai Thảnh cố gỡ nhưng hết sức cẩn thận vì sợ bể cái ghè, tuy khó nhưng cuối cùng cũng gỡ được, nghiêng ghè trút ra mặt đất thì thấy rơi ra nào là nhẫn, chuyền, cà rá, những tấm vàng lá dập nổi… Hai Thảnh lập tức hốt hết bỏ vô trở lại và bảo Đẹn ngồi đó giữ cái ghè. Đoạn ông đem xe bò lại, lấy cái ghè giấu vào giữa những viên đá ong, ông nói với Bảy Thạnh và Tám Tòng

- Tự dưng tui đau bụng quá, nay nghỉ sớm, bữa khác làm bù!

Mấy anh thợ tỏ vẻ không bằng lòng, Hai Thảnh biết ý liền nói

- Mấy anh em đừng lo, tui trả đủ công ngày hôm nay!

Nghe thế mấy anh thợ đá vui vẻ ngay, về đến nhà Hai Thảnh bưng cái ghè vào buồng riêng, sau khi đã đóng hết cửa lại. Ông trút ra sàn nhà, hai vợ chồng sáng mắt tươi hẳn lên, bao  nhiêu là vàng, đặc biệt nhất là những chùm cau và tượng thần  chi đó. Hai vợ chồng căn vặn thằng thằng Đẹn

- Đừng nói cho ai biết, họ mà biết thì mình chết đó!

Từ hôm đó, ông Thảnh không đi đục đá ong nữa, mấy người thợ làm chung ngạc nhiên lắm, đang làm ăn ngon lành bỗng dưng bỏ ngang. Bảy Thạnh đến hỏi thì Hai Thảnh trả lời

- Đá ong này tui nghi của người Hời, đục đẽo nhiều sợ bị vật, nếu lỡ trúng bùa yểm thì chết!

Bảy Thạnh không nói gì thêm, lòng đầy ngờ vực, dợm chân quay đi, ra đến cửa nghĩ sao ngoái cổ lại hỏi một câu

- Có phải bữa nọ anh được vàng?

Hai Thảnh giật mình nhưng lẹ làng đáp

- Trời đất, vàng ở đâu mà được chú Bảy?”

Bảy Thạnh cười nhếch mép

- Người ta nói vàng Hời bị yểm linh lắm đó!

Từ ngày nghỉ đẽo đá ong, nhà Hai Thảnh tự dưng phất lên. Hai Thảnh cho dỡ căn nhà cũ cất lại nhà mới, đúc năm tấm luôn. Hai thảnh còn mua mấy lô đất mặt tiền ngoài lộ mà mỗi lô nghe nói trên tỉ bạc. Mấy đứa con gái có chồng làng bên cũng được Hai Thảnh cho tiền nên bỗng nhiên sửa soạn se sua chưng diện, lái xe tay ga chạy rông rông khắp nơi. Thằng Đẹn không còn chăn bò nữa, giờ nó sáng sáng ra ngồi quán cà phê, xế chiều nhậu tới bến, tối đi karaoke… Tiếng đồn Hai Thảnh được vàng Hời lan xa khắp nơi. Người ta đoán già đoán non về số vàng Hai Thảnh được, tuy nhiều lời đồn khác nhau nhưng chung quy ai cũng tin chắc là Hai Thảnh được vàng Hời, Có người còn lý luận:” Không được vàng cớ sao Hai Thảnh cúng chùa Ngọc Thạnh trăm triệu, cúng Đình Vân Hội trăm triệu?  Không được vàng Hời sao Hai Thảnh rước đoàn hát bội về đình Luật Lễ cúng tạ, hát miễn phí suốt ba đêm liền? Ấy là chưa nói Hai Thảnh sắm lễ vật thịnh soạn ra tháp Bánh Ít cúng tạ mấy ngày liền”

 Ba lâm, Sáu Sự, Bảy Thạnh, Chín Cửu… quất hết hai lít bầu đá, người nào cũng sần sần hết trơn. Bảy Thạnh lè nhè 

- Tui đi đẽo đá ong với ổng được mấy tháng, một hôm bỗng dưng ổng nói đau bụng rồi hai cha con bỏ về, từ đó bỏ nghề luôn, từ đó bỗng dưng phất lên giàu dễ sợ. Ổng thì cất nhà năm tấm, con cái ăn diện chơi bời, mua xe, mua đất...thử hỏi tiền ở đâu? Bữa ổng bỏ về tui hổng có nghi ngờ gì ráo trọi, sau này liên kết nhiều việc lại thì tui mới vỡ lẽ ra là chả được vàng Hời.

Tiếng bàn tán um sùm của bạn nhậu. Sáu Sự chêm vào

- Khi ba tui còn sống, tui thường nghe ổng kể chuyện có người thỉnh thoảng được vàng Hời. Bà trùm Mễ được con ngỗng vàng, ông Tư Đẩu được chùm cau vàng…

Chín Cửu khề khà

- Tui cũng nghe tía tui kể chuyện gò Chàm, ổng nói mấy cái gò quanh đây đều thuộc về người Chàm ngày xưa. Mấy mả Hời có nhiều vàng và đồ cổ nên bị bọn trộm đào phá chanh bành.

Một lát sau Bảy Thạnh nói thêm

- Hai Thảnh được vàng Hời mà hổng biết điều, chơi hổng đẹp. Được vàng thì cũng chia cho anh em chút ít lấy thảo, đằng này ăn hết một mình. Người ta nói vàng Hời bị yểm nên linh lắm, được vàng mà không biết giải dễ bị vật như chơi!

Kế đến thiên hạ đồn râm ran khắp nơi, nhóm thợ đá làng Lộc Thọ xóm Cối Đá đào được tượng thần Shiva bằng vàng, bán được tỉ rưỡi bạc chia nhau nên giờ bỏ nghề hết rồi. Tiếng đồn đâu sai, bọn buôn đồ cổ lảng vảng quanh các xóm ở gò Chàm dọ hỏi mua đồ cổ. Chính quyền sở tại bắt đầu chú ý đến gò Chàm và những người có liên quan, quận đã cử người về tra hỏi vụ việc. Sở cũng cử chuyên viên khảo cổ về gò Chàm. Báo chí truyền thông lập tức nhảy vào đưa tin, khổ nổi một đồn trăm, bọn báo chí và mạng truyền thông tha hồ thêm thoắt thêu dệt vô số chuyện ly kỳ để câu khách.

Buổi tối nhà Hai Thảnh đèn neon sáng trưng, ti vi màn hình mỏng đời mới ra rả tin tức nóng bỏng về gò Chàm. Hai Thảnh và vợ thích thú thấy cảnh gò Chàm của quê mình được lên ti vi. Chương trình thời sự phát cảnh phỏng vấn giáo sư Dương Hồng Sinh. Giáo sư đưa ra kết quả sơ bộ cuộc điền dã gò Chàm

“ Chúng tôi đã khảo sát vỉa đá ong gò Chàm, đồng thời đào thám sát nhiều hố chung quanh. Sơ bộ chúng tôi nhận thấy vỉa đá ong dày mười mét sâu năm mét, còn độ dài thì chúng tôi chưa có số liệu chính xác. Sở dĩ vỉa đá ong lộ ra là do tháng năm mưa nắng bào mòn lớp đất mặt, móng chân thành này có lẽ bị vùi lấp từ sau thế kỷ mươi ba, khi mà kinh thành Vijaya bị triệt hạ. Tòa thành này cùng chung số phận như những tòa thành khác.  Đòan khảo cổ chúng tôi còn thu được rất nhiều hiện vật có giá trị lớn về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật như: ghè gốm, thống gốm, tượng chim thần Garuda, đặc biệt một tượng thần Vishnu vô cùng tinh xảo. Chúng tôi tạm kết luận vỉa đá ong gò Chàm vốn là một đoạn móng của một tường thành thuộc vương quốc Champa cổ xưa, có thể đây là một tiền cung của vua Chiêm, bởi vì từ gò Chàm đến kinh đô Vijaya không xa mấy. Chúng tôi tiếp tục khảo sát, làm đến đâu công bố kết quả đến đấy, sau khi kết thúc thì làm báo cáo  khoa học trình lên chính phủ. Điều đáng tiếc là cư dân quanh vùng không hiểu giá trị của di tích khảo cổ qúy giá này. Họ đục đẽo lấy đá ong về xây tường rào, làm giếng nước, thậm chí xây chuồng heo… Họ vô tình phá hoại di chỉ độc đáo quý giá này. Một số kẻ trộm cắp đào bới để tìm cổ vật, họ chỉ biết giá trị tiền của cổ vật mà không biết gì giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật của cổ vật! Mong sao chính quyền ra tay bảo vệ di tích lịch sử độc đáo của quốc gia!” 

Cả ông Hai Thảnh và bà Tư Đàm đều giật mình nhìn nhau, tuy không nói ra nhưng hai ông bà đều có cùng suy nghĩ và nỗi lo lắng. Bà Tư Đàm lặng lẽ bỏ vào buồn nằm, ông Hai Thảnh với tay lấy điều khiển tắt ti vi, ông ngồi trầm ngâm và liên tục đốt thuốc, cái gạt tàn đầy ắp mẩu thừa và tro của điếu thuốc, lòng ông Hai Thảnh thì ngổn ngang những nỗi lo mơ hồ từ mấy ngày qua.

Sáng hôm sau mấy quán cà phê của trấn Phù Dung quanh gò Chàm xôn xao hẳn lên. Những nhóm thanh niên ngồi đồng ở quán bàn tán chuyện đồ cố gò Chàm. Người các làng thấy chính quyền cắm bảng cấm đào bới gò Chàm. Nhiều người còn khẳng định “ Rồi đây bọn mua bán cổ vật gò Chàm sẽ bị sờ gáy cho mà coi”. Thằng Đẹn uống cà phê về nói với ông Thảnh

- Ba, người ta đang đồn rân chuyện gò Chàm, hổng biết mình có bị sao không nữa?

Hai Thảnh lo lắng mấy ngày qua, càng lo hơn khi thấy bảng cấm ở gò Chàm, giờ thì thiên hạ thêm mắm dặm muối càng làm cho câu chuyện thêm to. Hai Thảnh sợ có ngày người ta sẽ hỏi chuyện ông, tuy vậy Hai Thảnh cũng cố trấn an

- Không sao đâu con, mình có trộm cắp chi đâu! Mình đào đá ong trước khi có lệnh cấm kia mà!

Thằng Đẹn lại nói

- Ngoài quán cà phê người ta đồn nhóm thợ đá làng Lộc Thọ bị bắt rồi, họ còn thu lại được tượng thần Shiva bằng vàng từ tay bọn buôn đồ cổ.

Hai Thảnh chẳng phải lo lâu hơn nữa, bữa cơm trưa vừa dọn ra thì thấy Khanh khùng xăm xăm bước vào nhà. Sở dĩ y có biệt hiệu Khanh Khùng là vì tánh tình y tửng tửng , hờn giận bất thường. Y vốn là công an xã, năm kia làng có ngườii gả con cho Việt Kiều. Y không thấy người ta đến xin xỏ hay báo cáo như lệ thường. Y bèn tự thân đến nhà người ta, xồng xộc xông vào dò xét nhưng không thấy gì lạ. Y hỏi một câu ngớ ngẩn

- Tôi nghe người ta nói nhà bà gả con cho Việt kiều, bà làm đám cưới dấu sau bếp? Sao không báo cáo xin phép chính quyền?

Bà chủ nhà ngớ người ra, sau này chuyện lan truyền khắp các làng, từ đó ai cũng kêu y là Khanh khùng. Hai Thảnh thấy Khanh khùng thì lòng đã sờ sợ nhưng cũng cố tươi tỉnh chào hỏi y. Y chẳng đáp mà hoạnh họe

- Có phải ông được vàng Hời? Tại sao không báo cáo cho chính quyền?

Hai Thảnh run bắn lên nhưng trấn tĩnh chối

- Trời, ai đồn chi ác vậy? Làm gì có chuyện đó! Người ta ghen ăn tức ở đồn thổi bậy bạ đó!

Khanh khùng vặn

- Thế tiền đâu ông xây nhà năm tấm, lại còn mua mấy lô đất ngoài lộ?

Hai Thảnh nhanh nhảu

- Tui trúng mánh, đào được vỉa đá ong gò Chàm nên mới có tiền cất nhà.

Khanh khùng buông lời đe nẹt trước khi quay đi

- Ông bà liệu sao đó thì liệu, trên quận mà xuống thì không chối được đâu!

Hai Thảnh bàn với bà Tư Đàm nên có lễ vật gì cho y để y làm lơ cho, bàn tới bàn lui chỉ có tiền mặt là tiện lợi nhất và y cũng thích nhất. Mấy hôm sau quả thật người trên quận xuống thật, họ khám xét nhà Hai Thảnh và bắt Hai Thảnh đem về trên quận. Khanh khùng uống cà phê quán lộ thiên tiết lộ:” Quận khám nhà Hai Thảnh, tịch thâu ghè gốm cổ, một số vàng lá dập nổi thần Shiva và nhiều hiện vật bằng vàng khác. Quận cũng sung công quỹ mấy lô đất ngoài lộ vì là mua bằng tiền bất hợp pháp...” 

Bảy Thạnh hay tin hả dạ lắm, gặp bạn thợ đá liền hả hê báo tin

- Đáng đời Hai Thảnh, nếu hồi ấy ổng chia cho anh em một ít lấy phước thì giờ đâu đến nỗi mất sạch. Vàng Hời bị yểm nên linh lắm, nếu may không bị vật thì cũng mắc họa nọ kia”

Thằng Đẹn đổi thay từ ngày Hai Thảnh được vàng. Nó không còn đi thả bò nữa, bắt đầu đua đòi theo trào lưu K.Pop như con trai thành thị, quần áo se sua mốt Hàn, tóc nhuộm vàng hoe chứ không còn cháy nắng hoe hoe đỏ như râu bắp. Nó kết bạn với đám bạn vô công rỗi nghề  suốt ngày cà phê, bi da, nhậu nhẹt, Karaoke, rồi còn đua đòi bia ôm gái ghú… Có lần say sưa giành đào với nhóm khác ở quán Karaoke Ô Mê Ly, hai nhóm xông vào đánh đấm chém nhau. Một đứa trong nhóm kia bị chém trọng thương. Bà Tư Đàm phải bỏ ra một món tiền rất lớn để bồi thường cơm thuốc cho nạn nhân và  biếu họ nhiều lần nữa để họ bãi nại, phần phải dúi cho Khanh khùng để y làm lơ cho 

Chỉ sau mấy năm nằm ăn không và phá tán, của cải tài sản trong nhà dần đội nón ra đi sạch trơn. Hai Thảnh ở tù vì tội phá hoại di tích khảo cổ và mua bán cổ vật trái phép, nhờ có tiền nên chỉ hai tháng được thả ra. Hai Thảnh nhìn cảnh nhà cửa và thằng Đẹn nên phát rầu, nói với vợ

- Giá hồi đó đừng được cái ghè gốm thì chắc nay đâu đến nỗi này! Những tưởng được vàng sẽ lên hương nào ngờ bạc thế!

Bà Tư Đàm nằm võng đưa kẽo kẹt, hò

...Ầu ơ… ví dầu chàng được vàng Hời

            Ngỡ đâu lộc đất ơn trời chi đây...ầu ơ…

  Ầu...ơ… Ví dầu họa phước đổi thay…

 ầu...ơ...họa phước đổi thay

 ầu...ơ...Hôm qua mới được bữa nay mất rồi. 

Hai ông bà còn rầu rĩ thở than, thằng Đẹn từ đâu khệnh khạng xô cửa bước vào, dáng điệu loạng choạng chân nam đá chân chiêu, hơi thở nồng nặc rượu bia

- Ba má bán cái nhà này đi, lấy tiền cho tui làm ăn.

Hai Thảnh sững sờ, bà Tư Đàm ngồi bật dậy chưng hửng

- Đẹn, mầy nói sao? Bán cái nhà này rồi tao với ba mầy ở đâu? Không lẽ ra chợ gò Loi?

Thằng Đẹn hùng hổ

- Tui hổng biết, phải bán cái nhà này, tui cần tiền làm ăn!

Ông Hai  Thảnh nạt

- Làm ăn gì mầy! Ăn nhậu chơi bời thì có!

Thằng Đẹn sấn tới như muốn oánh ông già. Bà Tư Đàm la to

- Đẹn, mầy tính hỗn với ba mầy sao? Đồ bất hiếu! Muốn bán thì bán, sau này đầu đường xó chợ thì đừng trách.

Thằng Đẹn chỉ cần nghe bán là xuống nước liền

- Phải vậy chứ! Ba má bán nhà đưa hết tiền cho tui đặng tui làm ăn.

Nói đến đó nó ụa ọe nôn thốc nôn tháo xuống nền gạch bông, đoạn nó nằm vật ra giữa nhà ngủ ngáy như bò rống. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 02/2021

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.