Hôm nay,  

Câu Chuyện Đứt Ngang

07/05/202109:30:00(Xem: 4686)



Trao lời yêu thương
Kính tặng những người Mẹ “đơn côi”



Đời sinh viên vốn rất khó khăn và vất vả, thế mà Giáng Thu lại phải theo học một ngành mà nàng không thích. Riêng Lệ Chi – em của Giáng Thu – rất bằng lòng với cuộc sống hiện tại; vì, sau những dằn co dữ dội giữa Mẹ và nàng, nàng đã theo học phân khoa nàng thích; cũng sau sự “tản lờ” của nàng về những bài luân lý “xưa như trái đất” của Mẹ, Mẹ đành làm ngơ khi nàng có bạn trai – Trực, học bên Nha Khoa.

Thỉnh thoảng, vào những chiều chủ nhật, sau khi Mẹ đi làm, Giáng Thu tâm sự với em. Những lời phàn nàn, than thở của chị làm cho Lệ Chi xúc động, cảm thấy thương chị nhiều hơn, nhưng không biết khuyên giải bằng cách nào, đành hỏi:

-Tại sao chị không nói thẳng với Mẹ?

-Nói làm sao được khi mà Mẹ hy sinh tất cả cho chị em mình? Ước vọng duy nhất của Mẹ là chị phải trở thành M.D.

-Ước vọng của Mẹ là của Mẹ. Cuộc đời và sự nghiệp của chị là của chị. Sau này Mẹ không thể sống cho cuộc đời của chị.

-Sống trên đời không phải mình chỉ biết thực hiện những điều mình thích mà mình phải dung hòa giữa mình và những người liên hệ. Như Mẹ đó, nếu Mẹ chỉ muốn làm những điều Mẹ thích, ai nuôi chị em mình?

-Tại sao chị có thể biết Mẹ không thích những điều Mẹ đang làm? Em nghĩ Mẹ phải bằng lòng, vui thích thì Mẹ mới chịu khó như vậy chứ!

-Em không thấy vấn đề chị đưa ra à? Mẹ đưa chị em mình vượt biển sang đây lúc Mẹ chưa được 30 tuổi. Có người phụ nữ nào ở tuổi đó mà không thích được một người đàn ông yêu thương, chăm sóc? Có người phụ nữ nào với trình độ học vấn như Mẹ bỗng nhiên thích trở thành bà bán hàng tạp hóa ở xứ này? 

-Ai bắt Mẹ phải như vậy? Nếu Mẹ thích lấy chồng thì Mẹ lấy chồng; Mẹ không thích làm việc bán hàng thì Mẹ xin việc khác. Việc bán hàng tạp hóa ở Mỹ không tốt hơn thời Mẹ lam lũ ở kinh tế mới sao? Ai cũng chỉ có một đời để sống; vậy thì hãy sống thế nào cho mình vui sướng và hạnh phúc.

-Không ai bắt Mẹ, nhưng lòng thương con khiến Mẹ phải hy sinh hạnh phúc riêng của Mẹ. Nếu Mẹ sống đúng theo quan niệm của em thì – sau khi Ba vượt biển trước, rồi lập gia đình khác – chị em mình đành chịu đói khổ ở vùng kinh tế mới Đồng Bò chứ làm thế nào vượt biển sang đây để được học đến đại học?

-Mẹ sinh ra mình, Mẹ phải lo cho mình. Đó là luật!

-Luật chỉ bảo vệ trẻ con khỏi bị hành hạ chứ luật đâu có buộc Cha Mẹ phải lo cho con được sung sướng, hạnh phúc và cho con theo học đại học. Em thấy nhiều gia đình Mỹ “phủi tay” sau khi con học xong trung học hay không?

Lệ Chi đưa ra một nhận xét rất bất ngờ:

-Thật ra cho con theo học đại học chưa hẳn là ý Cha Mẹ mong con vui sướng, hạnh phúc mà chính vì sự ích kỷ, sự phô trương, tự mãn của Cha Mẹ.

Giáng Thu giật mình, nhìn thẳng vào mắt em. Trong mắt Lệ Chị, Giáng Thu có thể thấy được sự chân thật, ngay thẳng cho nên nàng có vẻ hoảng sợ, tưởng như Lệ Chi đã đọc hoặc nói hộ ý tưởng của nàng. Một thoáng thôi, Giáng Thu hỏi:

-Tại sao em nghĩ như vậy?

-Chị thử lắng nghe những mẫu đối thoại của các bậc Cha Mẹ người Việt thì chị biết. Họ chỉ cố đốc thúc cho con của họ chen cho được vào các trường đại học danh tiếng để họ “lên mặt” với bạn hữu mỗi khi có dịp. Họ không cần biết trong các trường đại học danh tiếng như thế con của họ phải “vẫy vùng” như thế nào; thần kinh của con họ phải căng thẳng đến mức nào; sức chịu đựng của con họ phải dai dẳng đến đâu để có thể đối đầu được với sự ganh đua của những sinh viên chọn lọc đó! Có người, con của họ không phải là bác sĩ hay luật sư nhưng gặp ai họ cũng cố tình khoe con của họ là bác sĩ/luật sư! Họ làm như xã hội loài người chỉ có bằng bác sĩ/luật sư mới có giá trị!

Sau một lúc cúi mặt lặng thinh như ngầm đồng ý với nhận xét của em, Giáng Thu đáp:

-Chị không nghĩ  Mẹ như vậy; vì Mẹ ít nói lại rất ít giao thiệp.

-Có thể Mẹ không giống như những người Việt Nam mà em đã đề cập; nhưng nhận xét của em là nhận xét chung. A, chị biết Trực nói gì với em không?

Giáng Thu ngước mắt nhìn em, chờ đợi. Lệ Chi tiếp:

-Trực bảo sau những lần thực tập, Trực không muốn ăn uống gì cả! Thấy ai nhổ bãi nước bọt mình đã gớm rồi; thế mà Trực phải nhìn vào trong miệng, nạy răng người ta, đủ thứ mùi hôi, tối nằm ngủ thấy ác mộng; nhưng Trực vẫn cố gắng học ngành Nha để Bố Mẹ được vui lòng! Thế mà có bao giờ Bố Mẹ của Trực vừa ý đâu! Lúc nào Bố Mẹ của Trực cũng đem con của người khác ra so sánh rồi nói người ta có phước, con mới 23, 24 tuổi mà đã “ra” nha sĩ, bác sĩ! Bố Mẹ của Trực cứ phân bì, sao ông bà không giỏi đi học đi! 

Im lặng một chốc, Giáng Thu đáp:

-Thật ra những nhận xét của em cũng không mới mẻ gì; nhưng những người con đã hấp thụ chút văn hóa Việt Nam chưa dám nói ra. Họ chưa dám nói ra với Cha Mẹ nhưng họ đã tâm sự với bạn hữu và người yêu rất nhiều. Chị có anh bạn, học trước chị hai năm, thường tỏ ra bực dọc vì phải theo học y khoa để Cha Mẹ vui lòng chứ chàng ta không thích. Thời gian thực tập, sau khi thức suốt đêm ở phòng cấp cứu, trên đường lái xe về nhà, chàng ta buồn ngủ, lạc tay lái, ủi vào gốc cây. Hai chân của chàng ta bị tê liệt!

-Ô, No!

Giọng buồn buồn, Giáng Thu bảo:

-Một lần, vô tình Mẹ nhắc là ngày cúng “thôi nôi” cho chị, chị bốc cây thước. Ba Mẹ tin rằng chị sẽ là cô giáo. Sau khi thuyết phục được chị vào y khoa, Mẹ bảo, Mẹ và họ hàng ai cũng vui mừng, hãnh diện về chị; đâu ai cần biết chị nghĩ gì và ước mơ gì!

-Có phải chuyện cúng “thôi nôi” ám ảnh chị hay không?

Giáng Thu lại lắc đầu, im lặng. Một chốc sau, Giáng Thu nói ra nỗi niềm của nàng:

-Không. Từ những ngày Mẹ chưa nhắc chuyện cúng “thôi nôi” chị cũng đã cảm thấy sợ xác chết và vi trùng. Lòng chị bất nhẫn khi thấy xác người được gắn ống thở, ống cho thức ăn thức uống vào miệng, ống “ị”, ống “tè”, v. v…Chị nghĩ đó không còn là đời sống mà đó chỉ là sự đày đọa xác người!

-Lạ nhỉ! Em tưởng khi thấy rõ sự đau đớn của con người, chị sẽ hăng hái bước vào con đường y khoa để xoa dịu vết thương cho nhân loại chứ!

-Từ bé chị cũng nghĩ như vậy; nhưng khi bước vào thế giới y khoa chị lại thấy khác. 

-Qua những gì chị bộc lộ, em ngại chị sẽ bỏ dỡ; nếu bỏ dỡ cũng uổng vì chị đã đi gần hết đoạn đường rồi.

-Mẹ “chăn” chị kỹ quá, bỏ sao được!

-Dù sao thì đó cũng là sự bất công!

-Em thấy đó, đi học, chị phải trực diện với những gì mà người đời ghê sợ, như máu, xác chết và vi trùng, v. v…Về nhà, ít khi chị gặp Mẹ, ít khi chị gặp em. Thỉnh thoảng có chàng nào mời chị đi chơi, Mẹ nói bóng gió xa xôi và so sánh thời Mẹ mới lớn và chị bây giờ! Mẹ lại đem phong tục tập quán Việt Nam ra giảng cho chị khiến chị cảm thấy như “date” là một trọng tội!

-Mẹ hành xử vói chị như vậy vì chị không dám nói ra những gì chị nghĩ. Chị phải nói ra để Mẹ hiểu chị cần gì, muốn gì; nếu không, Mẹ sẽ bắt chị sống theo ý của Mẹ.

-Đôi khi tình thương cũng đọa đày con người nhiều lắm, em biết không?

Nói xong Giáng Thu lại lắc đầu, tiếp:

-Không biết cuộc đời của chị sau này ra sao chứ từ ngày xong dự bị y khoa đến bây giờ chị cảm thấy như chị đang “vùng vẫy” trong một vũng lầy!

-Sao lại thảm não đến như vậy, chị?

-Chị được vào một trường mà đa số sinh viên được tuyển chọn với tiêu chuẩn cao. Vì tự ái cá nhân, vì tự ái dân tộc, chị phải chứng tỏ chị là một trong những sinh viên ưu tú của trường. Thế là “stress”!

-Cũng không còn bao lâu nữa, thôi, chị cố gắng lên, nha chị!

-Ra trường rồi làm gì? Không phải bác sĩ nào cũng “hái” ra tiền. Mà cuộc đời này đâu phải có tiền là có hạnh phúc! Em thấy có bao nhiêu người Việt đến văn phòng bác sĩ người Việt?

-Tại sao?

-Tại vì, trong khi bác sĩ ngoại quốc nghĩ rằng – đối với họ – bệnh nhân là quan trọng; bệnh nhân đem lợi nhuận đến cho họ. Họ cư xử và khám bệnh cho bệnh nhân với cả tấm lòng. Còn bác sĩ người Việt cứ nghĩ giống như Bố Mẹ họ đã nghĩ: Bác sĩ là “ghê gớm” lắm, bệnh nhân cần họ chứ họ đâu cần bệnh nhân. Họ là bác sĩ chớ giỡn sao! Sau khi chị ra trường thì Mẹ – cũng giống các bà Mẹ khác – sẽ thúc chị lập gia đình; vì, theo quan niệm Á Đông, chị không còn trẻ nữa! Rồi làm vợ, làm Mẹ, v. v…Cuộc đời của chị có khoảng thời gian nào vô tư để sống cho chị hay không? 

Cả hai cùng im lặng. Lệ Chi không ngờ nàng “khám phá” ra những điều đáng thương nơi người chị duy nhất của nàng. Giáng Thu chợt nhận ra tối hôm qua về muộn, nàng đã để quên kính cận trên piano. Giáng Thu bước đến piano với dụng ý sẽ lấy cặp kính nhưng bất chợt Lệ Chi reo lên:

-Chị Giáng Thu! Chị biết bao lâu rồi chị không hề “đụng” đến phím đàn không?

Giáng Thu nhìn em bằng ánh mắt buồn buồn. Lệ Chi tiếp:

-Đàn đi, chị! Đàn cho vui.

Giáng Thu ngồi vào ghế, mở nắp đàn, đôi tay lướt nhẹ trên phím đàn với dòng nhạc chợt đến trong hồn. 

Lắng hồn trong dòng nhạc êm đềm, thiết tha từ mười ngón tay của chị, Lệ Chi tự trách, tưởng “xúi” chị đàn cho vui, nào ngờ…Với dụng ý muốn chị đàn những nhạc khúc vui, Lệ Chi vói tay lấy tập nhạc ngoại quốc. Chưa kịp để tập nhạc trên piano cho chị, Lệ Chị chợt nhận ra tiếng hát buồn buồn của Giáng Thu: 

Lòng Mẹ bao la như biển thái bình dạt dào. 

Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào. 

Lời Mẹ êm ái như đồng lúa chiều rì rào ...”(1) 

Lệ Chi cảm thấy nặng lòng! Piano này là món quà đầu tiên và đắc tiền nhất trên xứ Mỹ mà Mẹ đã mua – trả góp – để tặng hai con. Chị em Lệ Chi cứ ngăn Mẹ đừng mua “piano à queue” vì giá quá đắc và nhà nghèo không có chỗ tương xứng cho piano này; nhưng Mẹ bảo:
 

-Cái đẹp thì ở đâu cũng đẹp. Cũng là piano, nhưng piano ‘có đuôi’, âm thanh tuyệt hơn nhiều. Lúc nào Mẹ cũng chỉ muốn tặng hai con những gì tốt đẹp nhất mà Mẹ có. 

Nhớ đến đây, Lệ Chi âm thầm quẹt nước mắt.

Trong khi Lệ Chi quẹt nước mắt, Giáng Thu lại cố nén cảm xúc vì hình ảnh của Mẹ ở kinh tế mới lại hiện về. Mẹ gánh nước. Mẹ ngồi quạt than, nướng bánh tráng và bắp, bán. Mẹ phụ bán cơm ở bến xe đò. Ban đêm Mẹ dạy hai con – và các em bé quanh xóm – học văn hóa và tiếng Anh, v.v…Công ơn của Mẹ còn nhiều nhưng bản nhạc đến đoạn cuối. Giáng Thu cúi mặt, đưa ngón tay thấm nước mắt rồi ngẫn nhìn em. Thấy mắt Lệ Chi cũng sủng nước, Giáng Thu đứng lên, dang đôi tay, chị em “hug”  nhau.



Vừa đi xuống bếp với em để tìm thức ăn trưa, Giáng Thu vừa hỏi:

-Nè, còn chuyện em với Trực tới đâu rồi?

-Cũng vậy thôi.

-Em và Trực tính gì thì tính nhanh đi. Hai người “bồ bịch” cũng lâu rồi, để lâu em bị mang tiếng.

-Tại sao em bị mang tiếng mà Mẹ và chị cứ lo? Bộ hai người yêu nhau là xấu xa lắm hay sao? Nếu xấu xa tại sao con trai không ngại mang tiếng mà chỉ ngại cho con gái?

-Dư luận người Việt thường tha thứ, dễ dãi với đàn ông, con trai nhưng lại rất khắc khe với đàn bà, con gái. Hai người yêu nhau trong sạch thì không có gì xấu; nhưng nếu tình yêu đổ vỡ, cô gái bị mang tiếng. Mẹ “nhồi” vào đầu chị như vậy và cũng vì chương trình học của chị nặng nề quá cho nên chị chưa dám có bạn trai.

-Thế thì buồn quá!

-Em nghĩ xem, có chàng nào chịu được cảnh mấy ngày mới điện thoại thăm nhau; cả tháng mới gặp nhau một lần – vì chị bù đầu với sách vở/máu/xác người!

-Nghĩ cũng lạ, người Mỹ, hễ con của họ đến 13, 14 tuổi mà chưa có bạn trai là họ quýnh lên, sợ nó bị bệnh bất thường; còn người Việt thì ngược lại!


******


Vào nhà, thấy Mẹ ngồi cắt móng tay, Lệ Chi nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để thưa chuyện với Mẹ về Giáng Thu. Nhưng khi Lệ Chi vừa mở đầu câu chuyện, Mẹ vội gạc đi:

-Con còn nhỏ, biết gì mà nói (?!). Giáng Thu không bao giờ nghĩ như vậy đâu. Giáng Thu hiểu rằng những gì Mẹ muốn cho các con làm là vì Mẹ muốn các con có một tương lai tốt đẹp.

-Làm thế nào Mẹ có thể quả quyết được rằng ý muốn của Mẹ sẽ đưa các con đến một tương lai tốt đẹp? Cho dù tương lai có tốt đẹp thì làm thế nào Mẹ biết chúng con có hạnh phúc với cuộc sống do Mẹ áp đặt hay không?

-Tại sao không? Khi con có bằng cấp cao, có địa vị xã hội, có tiền là con có hạnh phúc.

-Không đúng như vậy đâu, Mẹ!

-Con lại sắp sửa tranh luận với Mẹ nữa, phải không? Chỉ có hai đứa con thôi mà một đứa thì hiền lành, hiếu thảo còn một đứa thì cứ lý sự, ngang bướng, chịu hết nổi! Đồ bất hiếu!

Vì Mẹ không chêm nhiều tiếng Anh, Lệ Chi không hiểu tại sao Mẹ nổi giận:

-“Bat hiu” là gì mà Mẹ cứ nói với con hoài vậy?

-Bất hiếu là không biết thương, không biết nghe lời Cha Mẹ.

-Tại sao tiếng Việt lại có chữ  “bat hiu”, Mẹ?

Mẹ dậm chân, kêu “Trời!” rồi bước ra sân sau, ngồi! Lệ Chi vào phòng Giáng Thu với dụng ý nhờ chị ra hỏi Mẹ lý do nào Mẹ nổi giận; nhưng Lệ Chi ngạc nhiên khi thấy khăn trải giường vẫn thẳng băng. Thì ra tối hôm qua chị không về. Biết chị phải trực ở bệnh viện, Lệ Chi thở dài nhớ những lần chị em đang ăn tối hoặc chị em đang đàn hát bên nhau, điện thoại của chị reng. Trả lời điện thoại xong, chị thở dài, than: 

-Sau này đang cho con bú mà bệnh viện gọi là cũng phải bỏ con mà đi!

Khi nào nghe chị than, Lệ Chi cũng nhìn chị bằng ánh mắt tràn đầy xót xa!

Ra khỏi phòng của Giáng Thu, thấy Trực đang đứng nói chuyện với Mẹ nơi sân sau, Lệ Chi bước ra.

Trực và Lệ Chi cùng cười, nói
“Hi!” rồi Lệ Chi ra dấu cho Trực vào nhà. Mẹ bước theo.

Từ ngày quen Trực, Lệ Chi để ý, dường như Mẹ cố ý quanh quẩn bên nàng và Trực mỗi khi Trực đến nhà. Trực không bận tâm nhưng Lệ Chi lại khó chịu vì nàng nghĩ Mẹ không tin tưởng nàng và Trực. Mẹ muốn kiểm soát. Mẹ xâm phạm những điều riêng tư của nàng. Lệ Chi nhớ, lần đầu tiên khi nàng giới thiệu Trực với Mẹ, Mẹ cứ  hỏi dò xem Trực học hành ra sao, gia thế như thế nào, v.v…Lệ Chi bực dọc, trả lời “nhát gừng” với Mẹ làm Mẹ không vui. Lệ Chi nghĩ rằng nàng yêu Trực, tin tưởng và hiểu Trực, thế là đủ. Mặc cho Mẹ giải thích về cách thức “chọn” người yêu – theo kiểu Việt Nam…xưa – Lệ Chi nghĩ rằng đối tượng của nàng là Trực chứ nàng không “lấy cả gia đình” của Trực làm chồng thì tại sao phải “điều tra” gia đình của Trực. 

Tuy Mẹ đã giải thích, nhưng sau lễ đính hôn của Trực và nàng, Lệ Chi cứ nghĩ rằng Mẹ sẽ “nới lỏng” cho “hai đứa”, nhưng không; Mẹ vẫn lẩn quẩn bên cạnh khi Trực đem DVD đến để Mẹ/Trực và nàng cùng xem. 

Sau khi cho DVD vào máy, Trực đến ngồi canh Lệ Chi, trên ghế piano. Với dụng ý không cho Lệ Chi và Trực quá âu yếm, Mẹ bảo Lệ Chi xuống bếp lấy cho Mẹ ly nước. Khi Lệ Chi trở lên, trao ly nước cho Mẹ, Mẹ cứ hy vọng rằng Lệ Chi sẽ ngồi sang ghế “xa lông”, nhưng không! Lệ Chi ngồi vào vị trí cũ và có vẻ tựa sát vào người Trực. Thỉnh thoảng Trực và Lệ Chi âu yếm nhìn nhau, cười. Lệ Chi thấy Mẹ quay nhìn nàng với ánh mắt nghiêm khắc.

Xem hết DVD, Trực ra về. Lệ Chi đưa Trực ra “driveway”, vô tình thấy Mẹ nhìn theo Trực và nàng qua cửa sổ. Vừa trở vào phòng khách, Lệ Chi bị Mẹ cật vấn:

-Hai đứa làm cái gì kỳ vậy?

-Dạ, tụi con có làm gì đâu!

-Hai đứa mới làm đám hỏi chứ đã là vợ chồng đâu mà ngồi như vậy?

A, thì ra Mẹ không muốn Lệ Chi và Trực ngồi gần nhau. Tại sao phải đợi đến đám cưới hai người mới được tỏ ra âu yếm? Lệ Chi than thầm, Mỹ giải thích cho con cái tất cả những vấn đề thầm kín của con gái, con trai, trong khi không bao giờ Mẹ đề cập đến vấn đề thực tế này! Mẹ thường nhắc hai con là “nam nữ thọ thọ bất thân”. Hai chị em chỉ hiểu lờ mờ; Giáng Thu im lặng; Lệ Chi bật cười:

-Bên Việt Nam, muốn tránh tai họa cho con gái thì phải có những câu châm ngôn như vậy. Ở xã hội Tây phương, cũng với mục đích đó, người ta lại giải thích cho con gái về “birth control  pills”!

Mẹ mở lớn mắt nhìn Lệ Chi như không ngờ nàng biết ba chữ “birth control  pills”! 


******


Vì Lệ Chi trực tính và cứng rắn cho nên mối tình đứt đoạn giữa nàng và Trực không làm nàng đau khổ nhiều như làm cho Mẹ buồn! Điều Lệ Chi không thể hiểu được là tại sao Mẹ không hề đề cập đến sự đau khổ của Lệ Chi mà Mẹ chỉ ngại là danh dự gia đình bị tổn thương:

-Đây rồi không biết làm sao ăn nói, giải thích với họ hàng, bằng hữu!

-Mẹ! Con lấy chồng cho con hay là con lấy chồng cho họ hàng, bạn hữu của Mẹ?

-Cô lấy chồng cho cô nên cô đâu coi ai ra gì! Cô chỉ biết sống cho cô. Cô thương thì mau mau làm đám hỏi; hết thương thì cắt đứt “cái rụp” để cho tôi phải mang tiếng chịu lời!

-Mẹ! Không ai mang tiếng chịu lời gì cả. Mình không lấy người này thì mình lấy người khác. Tại sao mình không sống cho mình mà mình phải sống cho dư luận? Dư luận có bao giờ đem hạnh phúc đến cho ai đâu!

-Cô nói dễ quá mà! Làm Mẹ ai cũng mong con thông suốt chứ ai muốn con mình dang dỡ? Sau này cô ở vào cương vị của tôi cô sẽ hiểu.

-Bây giờ Mẹ muốn con làm gì? Mẹ muốn con lấy Trực để chịu khổ cả đời hay sao?

-Mẹ không bắt con phải hành xử như vậy. Mẹ chỉ muốn con phân tích xem Trực có những điểm nào tốt, bao nhiêu điểm xấu, rồi con cân nhắc xem con có thể quên được những điểm xấu của Trực để chú tâm vào những điểm tốt của Trực hay không? Nếu  không có gì trầm trọng mà chỉ vì những bất đồng nho nhỏ thì hãy tha thứ cho nhau.

-Hạnh phúc và tình yêu không thể đo lường được, Mẹ à!

-Thật ra Mẹ thấy Trực cũng có nhiều điểm tốt như vui vẻ, nhiệt tình, dễ dải, học giỏi, đẹp trai.

-Là phụ nữ Mẹ cũng hiểu rằng, người con gái, khi lấy chồng thường thường mình lấy người mình yêu. Người mình yêu có thể là một người không ra gì dưới mắt những người khác; nhưng đối với mình người ấy là số một. Khi yêu người phụ nữ mù quán đến như vậy và người phụ nữ cũng chỉ đòi hỏi người đàn ông đó cũng nghĩ rằng nàng là số một. 

Lệ Chi vừa nói ngang đây, Giáng Thu mở cửa bước vào với gương mặt bơ phờ vì thiếu ngủ. Thấy rõ sự mệt mỏi của chị, Lệ Chi chưa muốn cho chị hay về sự đổ vỡ giữa nàng và Trực. Mẹ ái ngại nhìn Giáng Thu:

-Con đi rửa mặt, Mẹ làm chút gì con ăn rồi con ngủ, nha, con!

-Thôi, con cần một chỗ nằm.

Nói xong Giáng Thu cởi giày, nằm theo lòng ghế “xa-lông” dài. Không nở “đuổi” Giáng Thu vào phòng, Mẹ vào phòng đem ra hai cái gối. Giáng Thu gối đầu lên một gối, nằm nghiêng mặt vào thành ghế rồi che cái gối kia lên tai. Xoay trở một chốc, Giáng Thu lấy ống xem mạch nơi cổ, nhét dưới gối, rồi ngủ. Lệ Chi hỏi Mẹ:

-Mẹ chưa sửa soạn đi làm sao?

-Còn sớm, con.

Chỉ thốt được ba tiếng ấy rồi Mẹ nhìn ra sân, dáng nghĩ ngơi. Trong khi Mẹ chìm vào sự xa vắng nào đó, Lệ Chi chợt nhớ đến Trực và tự hỏi lòng xem lý do nàng dứt tình với Trực  có xác đáng hay không? Cho đến lúc này, Lệ Chi cũng vẫn nghĩ rằng quyết định của nàng là một hành động sáng suốt. Bất ngờ Mẹ hỏi:

-Lệ Chi! Con có nghĩ rằng con nên suy nghĩ lại về quyết định dứt tình với Trực hay không?

-Dạ không.

-Con có thể cho Mẹ biết – tý tý thôi – về nguyên nhân sự đổ vỡ hay không?

-Thưa Mẹ, có thể những cô gái khác cho rằng con dại; vì Trực có tất cả ưu điểm bề ngoài để chinh phục phái nữ. Nhưng con chỉ cần một người yêu chứ con không cần một người lúc nào cũng muốn chứng tỏ ta đây là kẻ luôn luôn “chiến thắng” trên tình trường.

-Con có nói ý nghĩ của con cho Trực biết để Trực thay đổi hay không?

-Dạ, có. Trực đã thay đổi những khi con hiện diện bên cạnh; những khi vắng con, Trực vẫn không thay đổi; điều này làm cho con xem thường Trực. Và con không thể làm vợ một người mà con không kính trọng!

Cả hai cùng im lặng. Cuối cùng Mẹ bảo:

-Lệ Chi! Con là một thiếu nữ can đảm và nhiều nghị lực.

-Tại sao Mẹ lại nghĩ như vậy?

-Hành động dứt khoát của con đối với Trực cho Mẹ thấy điều đó. Con hơn Mẹ xa. Mẹ đã bị nhồi vào đầu mớ luân lý “tào lao” của mấy ông Tàu cho nên Mẹ khổ cả đời!

Rất ngạc nhiên khi nhận thấy quan niệm sống của Mẹ không còn quá thủ cựu nữa, Lệ Chi muốn nhân cơ hội này sẽ trình bày với Mẹ về tâm sự của Giáng Thu để Mẹ hiểu rõ lòng thương yêu vô bờ của chị dành cho Mẹ; nhưng giọng bực dọc của Giáng Thu vang lên:

-Mẹ ơi! Suốt đêm trực ở phòng cấp cứu, không chợp mắt được một giây, cho con ngủ một chút mà!

Mẹ và Lệ Chi nhìn nhau, im lặng. Câu chuyện bị đứt ngang!



1.-Lòng Mẹ của Y Vân.

ĐIỆP MỸ LINH

http://www.diepmylinh.com/ 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.