Hôm nay,  

Anh Tôi

18/08/202114:06:00(Xem: 4776)
A beach with palm trees and a body of water

Description automatically generated with low confidence
 Vịnh Nha Trang

                                                                   

 

Một người cháu cho tôi hay: “lúc 2 giờ sáng nay, thứ 7 ngày 7 tháng 8-2021, cậu Ba thức dậy nhờ ‘người nuôi bịnh tại gia’ dìu đi tiểu. Xong, cậu Ba vô giường nằm. Sau đó lúc 5 giò sáng người làm vô giường xem thì thấy cậu Ba ngừng thở. Vậy cậu Ba ra đi khoảng từ 3 đến 5 giờ sáng. Chiều tối hôm thứ Bảy, xác cậu Ba được liệm. Và 3 giờ chiều mai, Chủ Nhật, ngày 8 tháng 8-2021 tức là ngày Mùng 1 tháng 7 âm lịch sẽ chôn Cậu Ba tại Nha Trang. Mộ Cậu Ba nằm sát bên mộ Mợ Ba.”...

Mặc dầu anh tôi qua đời không liên quan gì đến dịch bịnh Covid-19. Anh thọ đến 92 tuổi, anh qua đời vì biến chứng của tuổi già, sức khỏe yếu, trí tuệ bị hao mòn. Anh tôi sống trong lú lẫn suốt 2 năm qua. Tuy nhiên, theo lời người cháu: ”Ở Việt Nam hôm nay Nhà Nước đang thực hiện giãn cách. Ở Ninh Thuận cũng như Khánh Hòa đang thực hiện chế độ giãn cách theo đúng chỉ thị 16 của chính phủ về phòng chống Covid-19, nên mọi người không được đi đâu hết. Chị Biếc, con gái lớn, của cậu mợ Ba ở Đà Nẵng, anh Đỉnh con trai út của Câu Mợ Ba đang ở Saigòn đều không thể về Nha Trang được. Dù rất muốn về để tang. Gia đình cháu và các anh chị, con Dì Tư, cũng rất muốn ra Nha Trang  viếng Câu Ba  cũng không thể nào đi được. Việc mai táng câu Ba trong vòng 48 tiếng đồng hồ là theo yêu cầu của chỉ thị 16- của Nhà nước phòng chống dịch bịnh Covid-19”. Mọi phúng điếu đều bị từ chối vì chính quyền cũng đang phòng chống tham nhũng....

Cách đây hơn 10 năm, hai vợ chồng tôi về thăm anh tôi  ở Nha Trang. Lúc ấy anh chừng ngoài 78 trông anh yếu hẳn đi, tóc anh bac phơ trông xác xơ. Xót cho anh, tôi nói:

- Sau gần mười năm trời bị vùi dập trong lao tù cải tạo, bây giờ sức khỏe anh yếu lắm rồi! Anh tôi liền cười và cướp lời tôi: 

- Đi tù cải tạo là tai trời ách nước. Người miền Nam, bên này vĩ tuyến 17 mà không đi tù cải tạo sau ngày 30-4-75 kẻ đó không phải là người miền Nam. Không phải bị ngược đãi hay bị vùi dập gì đâu, người anh gầy tóc anh bạc vì anh giống má từ hồi còn trẻ. Nói xong anh cười phá lên hình như để khỏa lấp nỗi lòng trắc ẩn của anh trong suốt gần 10 năm tù lao cải. 

Những lúc đó anh em tôi nói chuyên với nhau rất nhiều nhưng anh tôi tuyệt nhiên không nhắc nhỡ gì đến những năm anh sống trong lao tù cải tạo tại miền Bắc. Chị dâu tôi, vợ của anh, có vẻ ấm ức, muốn anh tôi nói rõ cho hai vợ chồng tôi nghe những chịu đựng gian khổ của anh trong lao tù cải tạo. Anh tôi nhìn chi dâu tôi, anh mĩm cười:

- Không ai có thể chia sẻ trọn vẹn sự chịu đựng đau đớn của người khác được. Và cũng không ai có thể nói hết được sự đau đớn của riêng mình. Họa chăng chỉ có thuyền mới hiểu được biển, chỉ có biển mới hiểu được thuyền, nhưng thuyền và biển đều câm nín cả...Đạo khả đạo phi thường đạo. Nói xong, một lần nữa anh tôi lại cười phá lên.  

Đến buỏi ăn trưa tôi có cảm tưởng anh chị tôi thiết đải vợ chồng tôi, vì bữa ăn tại gia đình nhưng thịnh soạn. Chị dâu tôi nấu cơm gà Phan Rang thơm lừng, có mắm gừng, có bia Heineken. Hình như đọc được ý nghĩ của tôi, anh tôi bảo:

- Dù sao, có chú thím về anh chị cũng phải...Nhưng thật sự bữa ăn của vợ chồng tôi được cải thiện rát nhiều trong mấy năm qua, kể từ ngày các con vượt biên qua được Mỹ, ăn nên làm ra, tụi nó gửi tiền về... Đoạn, anh nhìn vợ tôi anh hỏi:



- Sau hơn 20 năm ở Mỹ, hôm nay lần đầu tiên thím ăn cơm trưa, chắc thím có cảm giác lạ lắm phải không? Thú thật với thím tôi cũng vậy, hồi năm 62 trở về nhà sau hơn một năm ở Mỹ, tôi ngạc nhiên hết sức khi thấy mình ngồi lại ăn cơm  trưa với vợ con với gia đình chẳng khác nào người Mỹ ăn dinner vậy. 

 Câu chuyên anh tôi vừa nói làm tôi nhớ lại anh là một sỹ quan của không lực của quân đội VNCH, đã có hai lần sống ở Mỹ: 1961 và 1970. Ấy thế mà năm 1975 ah nhất định không đi. Anh yêu nước biết là dường nào!

  Chị dâu tôi bảo:

-  Cầm đủa, mời hai em ăn đi ông, quá 12 giờ trưa rồi. 

-  À mời chú thím. Mời bà....Anh tôi bảo.

Vì thương anh tôi, chi dâu tôi muốn vợ chồng tôi, nhất là tôi (được anh chị tôi nuôi tôi từ hồi nhỏ cho đến ngày tôi ra trường làm bác sĩ) phải chia sẻ những gian khổ  của anh trong hơn 20 năm sống dưới ché độ quản lý hà khắc của Chuyên Chính Vô Sản, chi dâu tôi nói trong giọng ngậm ngùi và cả nước mắt nữa: 

- Khi ông ấy được lệnh tha, về với gia đình. Ở trong trại tù ông ăn đói, ốm nhom, gió xô cũng ngã. Bữa cơm đầu tiên mẹ con tôi nấu cơm gà cho ông ấy. Tay ông cầm đũa gắp miếng thịt gà mà cứ run run, ông đưa vào miệng ngậm, một hồi lâu  mà nước mắt ông ràng rụa, ông ậm ực: “gần mười năm!”.... 

Anh tôi đưa tay vuốt lưng chị dâu tôi vỗ về:

- Thôi bà, đó là quá khứ. Quá khứ của nhầm lẫn...Chú thím cũng như nhà tôi, nên quên cái thời đó để mà vui sống. Bây giờ là thời mở cửa, thời cởi trói, đổi mới. Thời nào chúng ta sống theo thời đó cho nó ổn. Đâu chỉ có những người tù cải tạo như chúng tôi mới sống đói khát thiếu thốn. Việt Minh họ cũng vậy. Tháng 10-1955  bộ đội Việt Minh về tiếp thu Hà Nội, trong một bữa tiệc khoảng đải, cụ Phan Khôi cầm đũa chỉ vào miếng thịt gà nói một câu cay đắng: ”Chín năm nay tau mới thất mặt mày”...

 Chị dâu tôi xem chừng vẫn còn ấm ức, chi nói:

- Ngày 24-3-1975 cả gia đình vợ chồng con cái đã lên ngồi trên chiếc DC-10 trong căn cứ Phi Long, Nhatrang, sắp sữa cất cánh. Ông nhất định kéo xuống hết và ông bảo với các con ở lại với đất nước, Viêt Nam dù sao đi nữa vẫn là quê hương, vẫn là thiên đàn...Sau ngày 30-4-75 ông khăn gói trình diện đi tù cải tạo.  Ông còn nhớ không ông?  Sau câu nói ấy mặt chị tôi sa sầm nước mất. Anh tôi nhìn chị tôi yên lặng không nói được một lời. Lặng thinh một hồi anh tôi bảo:

- Có hai em về thăm...sau hơn 20 năm xa cách. Còn chuyên đó cũng đã gần 30 năm rồi. Tôi xin bà hiểu cho ai cũng có một lần vấp ngã...

 Tôi nhớ hôm đó là ngây 21 tháng Chạp, vợ chồng tôi quyết đinh ở lại với anh chị những ngày cuối năm. Anh em tôi mang mùng mền ngủ với nhau trong một phòng riêng. Những câu chuyện trao đổi lúc tàn canh, những bạn bè của anh từ chối diện H.O. không đi Mỹ, ở lại với quê hương, họ chết dần, chết mòn trong cảnh cơ hàn, bịnh tật. Anh tôi nói “ Anh cảm thấy cô đơn...may mà còn có chị của Chú bên cạnh anh khuya sớm. Ngày mà anh nhớ nhất trong đời là ngày đươc vợ thăm nuôi...’’ 

 Từ ngày chị dâu tôi qua đời cách đây ba năm, tinh thần anh tôi suy sụp thấy rõ. Các con của anh ở Mỹ muốn đưa anh sang Mỹ anh vẫn từ chối. Anh quyết tâm ở lại với chị đến hơi thở cuối cùng. Giờ này anh tôi đã được an vị bên cạnh mộ phần của chị dâu tôi. Và với anh, Việt Nam lúc nào cũng là quê hương.  Dù sao đi nữa, Anh tôi đã toại nguyện với chị dâu tôi và sống chết với Nha Trang, với quê cha đất tổ../.

Đào Như

Bác Sỹ Đào Trọng Thể

Chicago-13-8-2021


 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.