Hôm nay,  

Vui, Buồn, Tháng 12…

07/12/202117:02:00(Xem: 4128)
VUI BUON 2
Một hình ảnh của Sài Gòn hoa lệ vào tháng 12, trước 1975.



1.

 

Xa xưa, vài năm đầu thập niên 60 thế kỷ trước, chiến tranh còn chưa khốc liệt mà chỉ mới có mặt đâu đó ở những vùng rừng núi thật xa đô thành Sài Gòn, lâu lắm mới nghe tiếng đại bác chợt vọng về thành phố ban đêm. Do đó, ít ra là đối với tuổi niên thiếu hồn nhiên của những cậu bé dân Sài Gòn như tôi, những tháng 12 thời ấy quả là “bình yên dưới thế” nên bọn nhóc chúng tôi đều vô tư, háo hức trông chờ những lễ hội lớn lao, thật vui vẻ là lễ Giáng Sinh và Tết dương lịch.

 

Chính vào thời ấy, tôi mới bắt đầu hiểu lễ mừng Chúa Giáng Sinh hằng năm không chỉ là sinh hoạt tín ngưỡng của riêng người Thiên Chúa giáo mà thực tế còn là một lễ hội lớn của toàn cầu, gắn liền với lễ hội đón Năm Mới của toàn nhân loại, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, màu da, châu lục nào. Vào mùa Giáng Sinh, giáo dân lo hành lễ ở nhà thờ của mình rồi cùng toàn thể mọi người chúc tụng, tặng quà qua lại, họp mặt, tiệc tùng, khiêu vũ, vui chơi, hẹn hò, v.v…

 

Cứ bắt đầu nghe bản Jingle Bells vang vang ngoài phố cùng hình ảnh ông già Noel cỡi xe tuần lộc tươi cười trên những tấm thiệp đẹp đẽ là tôi đã cảm thấy vô cùng nôn nao, hí hửng. Bọn trẻ, bọn thanh niên nam nữ thì lúc nào chẳng chộn rộn trong những mùa hoan lễ!

 

Năm nào cũng vậy, bác Phán, một con chiên ngoan đạo, bạn bố tôi, cũng mời toàn bộ gia đình Phật giáo chúng tôi đến chơi ở nhà bác suốt đêm 24, hay ít ra phải có mặt lúc nửa đêm để cùng ăn réveillon. Người ngoại đạo, không phải Thiên Chúa giáo, cũng rầm rộ tổ chức ăn uống vui vẻ. Một cái cớ quá đẹp cho các ông chè chén thâu đêm trong cái lạnh nhè nhẹ tuyệt vời cuối năm.

 

Sau khi đã mỏi chân dạo phố Tự Do, Lê Lợi, Nguyễn Huệ… tráng lệ đèn hoa (đặc biệt rực rỡ là khu vực nhà thờ Đức Bà quận Nhứt và nhà thờ Đức Bà khu Tân Định), ai nấy trở về nhà mình hay nhà bạn bè, cùng nhau ngồi vào bữa tiệc nhất định kéo dài. Đối với cậu bé háu ăn là tôi, người ta mừng Chúa ra đời bằng tất cả tình cảm kính yêu Chúa là rất tốt, nhưng càng tốt hơn nhiều khi có thêm món gà tây tuyệt vời ở nhà bác Phán. Hồi đó, tôi đã tưởng tượng vào ngày lễ Phật Đản, bên cạnh mâm cơm chay của bà ngoại và mẹ tôi mà còn có thêm một chầu buffet đại loại như bữa réveillon đêm Noel thì hay quá! Vào cái đêm đặc biệt này, tôi còn được người lớn cho phép uống một tí rượu vang nữa. Chưa hết, tại nhà bác Phán,  bác ấy còn nghiêm trang cho biết do nghe tôi đã được lãnh bảng danh dự “đỏ” trong lớp học (hồi đó, hằng tháng có 3 bảng màu đỏ/ xanh /vàng cho 3 hạng nhất /nhì /ba) ở tháng 11 nên ông già Noel quyết định có phần thưởng cho tôi, y như cho tất cả trẻ em ngoan ngoãn, học giỏi trên trái đất này nhân mùa Giáng Sinh. Ông già Noel đã nhờ chủ nhà chuyển tới cậu khách “nhí” một món quà Noel thật xinh xắn, tương tự như đám con của bác đã nhận trước đó…

 

Ông già Noel muôn đời tốt bụng! Và bác Phán – người đại diện của ông cũng tốt bụng không kém dù bác có hơi đãng trí, quên mất rằng tôi lúc ấy đã là một thiếu niên, dễ gì bị gạt về sự tồn tại huyền thoại của thánh Nicolas ở thế kỷ 20 cùng các trò ma mãnh của ông ấy, như chui ống khói vào nhà, bí mật để quà tặng trên đầu giường cho bọn trẻ, khi chúng vẫn còn say ngủ với những giấc mơ thật đẹp… Không sao cả, vì không gì sung sướng, hạnh phúc hơn cho bằng làm con nít mà được người lớn gạt gẫm kiểu này. Cứ để cho bác Phán phỉnh tôi bởi đã… yêu thương tôi không khác con cái nhà bác mà chia đều quà cáp mùa Giáng Sinh.

 

Vào thời ấy sao người ta có thể sống dễ chịu và rộng mở thương yêu đến thế? Hình như ai nấy đều an tâm, miệt mài làm việc trong một nền kinh tế vững mạnh. Vàng y còn khá rẻ, tiền Việt Nam “đồng cao giá hơn tiền “won” của Nam Hàn. Giới đi làm ăn lương là quân nhân – công chức (hồi đó nói tắt là quân công) ở mọi cấp bực lớn nhỏ đều có lãnh phụ cấp gia đình (tức lương vợ, lương con) cùng nhiều loại phụ cấp khác, như: phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp chức vụ, phụ cấp độc hại, phụ cấp khu vực, phụ cấp bằng cấp, v.v… Trong nước rất hiếm khi nghe nói đến nạn công chức tham nhũng. Ngày nay, thỉnh thoảng người ta còn nhắc một cách ngắn, gọn đến nền kinh tế – xã hội thời đó với cái tên “hồi một người đi làm nuôi cả nhà”. Mọi người được đãi ngộ và kiếm sống xứng đáng với mồ hôi cần lao mình bỏ ra. Để rồi, điền hình như trong mùa Giáng Sinh, người ta sống tương thân tương ái, sẵn lòng chia sẻ những gì mình có với bạn bè, không phân biệt giai cấp xã hội, tôn giáo, học thức…

 

Có cả những ông chủ người ngoại quốc rất hào phóng với nhân viên thuộc cấp người Việt. Không riêng gì ông xếp Tây bụng bự ở chỗ làm của bố tôi và bác Phán là công ty đồn điền Michelin, nhiều ông xếp Tây khác, như ở công ty đồn điền S.I.P.H., hãng bia La Rue, hãng xe L’U.C.I.A v.v… cũng tặng quà Noel rất hậu hĩnh cho nhân viên, đó là theo lệ cứ cuối tháng 12 hằng năm là ít nhiều tùy theo cấp bực và năng lực, mỗi nhân viên người Việt đều lãnh thêm lương tháng 13 cùng một phiếu tặng quà “ăn Noel”gồm như: đùi trừu (gigot), chai rượu chát, lóc bia La Rue loại đặc biệt nhãn xanh (trên thị trường chỉ có nhãn đỏ), v.v… Như vào sáng ngày 24, phố phường đông vui, nhộn nhịp, tôi được bố tôi chở đến Givral ở đường Nguyễn Huệ Q.1, cửa tiệm thực phẩm cao cấp bậc nhất Sài Gòn thời ấy. Bố tôi đưa ra phiếu tặng của chỗ làm và nhận ngay một cái đùi cừu lạnh cứng. Tôi hỉnh mũi hãnh diện vô cùng vì thịt cừu (hay thịt ngỗng, thịt gà tây) vốn là những món ăn sang trọng, cao cấp kiểu Tây mà không phải dân có tiền nào cũng có được trong tiệc Giáng Sinh.

 

2.

 

Trước biến cố máu lửa Mậu Thân 1968, cậu học sinh cuối cấp trung học là tôi lại hưởng thụ tháng 12 theo kiểu… không con nít nữa! Nguyên từ sau 1963, chính biến đã khiến nền đệ nhất Công hòa sụp đổ cùng cái lịnh cấm khiêu vũ của bà cố vấn Trần Lệ Xuân, dân Sài Gòn vui chơi thoải mái hơn. Tôi nhớ là dù phải chăm chỉ học hành cho hai cái bằng tú tài I và II (hồi đó tú tài II còn thi cả vấn đáp môn sinh ngữ chính, như tôi phải thi với một giáo sư người Pháp) nhưng cứ mùa Noel là chơi thả cửa với một nhóm bạn con nhà giàu. Con nhà trung lưu như tôi chơi với đám “công tử bột” này cũng không đến nỗi là dựa hơi, chơi ké vì tôi vừa là tên học giỏi nhất đám, nên các cậu hay nhờ tôi chỉ bài chỉ vở. Đổi lại, khi các cậu hùn tiền lập một ban nhạc trẻ thì tôi được giữ vai rhythm guitar (dự khuyết thôi). Thế là, ban nhạc không có tên này hợp tác với bạn bè trong trường và các bạn bên các trường Pháp là Marie Curie. Les Lauriers, Charles De Gaulle…

 

Chúng tôi tụ tập chơi party (hay đi “bùm” hay đi “ban” trong khi tiếng Pháp bal de famille có nghĩa là khiêu vũ gia đình) suốt từ đêm 24/12 cho đến đêm giao thừa 31/12! Nhớ là ví dụ như Noel trúng vào thứ Sáu, thì chơi suốt cho tới thứ Sáu tuần sau – một tuần lễ. Cứ chiều tối là ăn-tơ-ni (tức en tenue, tiếng Pháp có nghĩa là… lên quần lên áo, bọn học trường Việt thường nói bừa là  ăn-tơ-ni), hò hẹn kéo tới một biệt thự tư gia nào đó, nhảy nhót suốt đêm. Nếu ban nhạc “oải” rồi thì nghỉ, để băng ma-nhê hay đĩa 33 tours mà nhảy tiếp. Có một lần, khoảng 1 giờ sáng, tụi tôi nghỉ chơi, chở “đào” về chợ Đa Kao, trong nhà lồng chợ có một chỗ bán đồ ăn uống suốt đêm tới sáng. Không rõ là ăn đêm hay ăn sáng nữa nhưng dân chơi Sài Gòn đều biết chỗ ăn uống bình dân nhưng ngon lành này. Tên chef d’orchestre (trưởng ban nhạc) ngớ ngẩn hỏi: “Tối mai đi đâu hả tụi bây?” Tôi cười: “Tối nay chớ tối mai gì? Đã một giờ rồi, qua ngày mới rồi mà!” Nghĩa là người ta vui chơi đến mất cả ý niệm thời gian.

 

Nhưng có quên gì cũng được nhưng phải nhớ là chỉ vài tiếng đồng hồ thôi, phải về nhà, tắm rửa sửa soạn, bỏ bộ cánh sang trọng mặc đi nhảy đầm ra mà mặc vô bộ quần xanh áo trắng để đến trường vì giữa Noel và Tết tây vẫn có mấy ngày đi học. Bọn trẻ chúng tôi thời đó phải làm sao học cho giỏi, cho khá (còn chơi thì… khỏi nói, nhất định giỏi!) mới được cha mẹ tin tưởng mà cho tự do đi chơi. Điều vô cùng quí giá là thời đó, đám thanh niên nam nữ con nhà giàu có, thế lực như thế mà chẳng bén mùi ma túy, thuốc lắc, thuốc kích dục… như thời nay. Có ghê gớm lắm là một lần, một tên trong đám lén lấy trong tủ rượu của “ông già” hắn một chai Hennessy ra cho cả bọn uống sec thử (không kèm soda), cho le lưỡi, lắc đầu chơi – rồi thôi!

 

Đêm giao thừa dương lịch thật tuyệt vời! Còn chừng nửa phút nữa là đúng giữa đêm, mọi người dừng khiêu vũ, nắm tay nhau đứng tại sàn nhảy. Đèn tắt bớt, ban nhạc chơi bản Silent Night với volume nhỏ nhất, nghe dịu ngọt cả cái thời khắc ý nghĩa này. Tất cả nhìn vào cái đồng hồ treo tường và cùng nhau đếm ngược… Năm! Bốn! Ba! Hai! Một! Đúng 12 giờ! Lập tức đèn mở sáng, ban nhạc chơi bài Auld Lang Syne (bài ca Anh Cát Lợi cổ xưa này bị tụi tôi gọi là bài Ò e rô-be đánh đu…!). Mọi người cùng la lên “Chúc mừng năm mới!” bằng cả tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh. Lớn giọng nhất, và cũng xúc động nhất, là những người bạn ngoại quốc, cuối năm không về nước mà ở lại đón năm mới cùng bạn bè Việt Nam. Mọi người lại bắt tay nhau, ôm choàng nhau, hôn nhau thắm thiết. Một cô bé trường Marie “Cút” mới quen thôi, đẹp như thiên sứ trên trời, cũng vui vẻ cho phép tôi hôn (lên má thôi!) khi tôi ba xạo, xin một nụ hôn “lấy hên” đầu năm mới! Chủ nhà lên lấy micro chúc năm mới một lần nữa và hét lên “Nào, các bạn hãy khiêu vũ với bản nhạc đầu tiên của năm mới!”

 

Sau bài Auld Lang Syne với nhịp slow-rock êm ả, mấy cặp khiêu vũ đứng nguyên tại piste, nhảy tiếp với bài Spagna Cagni “đấu bò tót” truyền thống, nhịp pasodoble rộn ràng đầy sức sống…

 

3.

 

Rồi biến cố tháng 4-75, cuộc sống tưởng như cứ bình thường trôi theo năm tháng đã đảo lộn tơi tả. Rồi nối tiếp nhau năm tàn tháng tận, hình nét ngày 24 Giáng Sinh lại xuất hiện trên tờ lịch tháng cuối cùng, thì những kỷ niệm, sẻ chia cùng những gương mặt kề cận trong dịp lễ lớn lao này thời “trước 30 tháng 4” đã dần dà phai nhạt, tan loãng trong trí nhớ.

 

Thời thế thay đổi, rất nhiều điều vui vẻ rất bình thường trước 30/4 còn bị vùi dập bởi những khó khăn cơm áo, chứ có riêng gì lễ hội mừng Chúa Giáng Sinh, đón Năm Mới vốn đã bị ai đó lên án là trò ăn chơi, hưởng thụ của bọn tiểu tư sản? Do đó, cứ đến lễ Noel là một số, chứ không phải toàn thể, gia đình người Công giáo lặng lẽ đi nhà thờ hành lễ cho nhanh, gọn rồi trở về nhà.

 

Và giữa thời buổi xếp hàng mua gạo theo sổ tiêu chuẩn thì hãy quên đi cái tiệc réveillon thịnh soạn giữa đêm mừng Chúa ra đời mà người Sài Gòn, không phân biệt lương giáo đã cùng vô tư chia sẻ cho nhau ngày nào…

 

Vào cuối tháng 12 năm 1979, tình cờ tôi gặp lại anh chàng trưởng ban nhạc cùng học ở lớp đệ Nhị ngày xưa. Gia đình anh suy sụp hẳn sau đợt đánh tư sản, nhưng ba anh, ông thương gia có hoạt động kháng chiến chống thực dân Pháp một thời, rồi giàu sụ một thời, lại rất “giác ngộ”. Trong nhà có 10 đứa con, ông xua 5 đứa – cả trai lẫn gái – “tình nguyện” đi thanh niên xung phong, 2 đứa trai khác đi nghĩa vụ quân sự, bạn tôi và cô em gái kế út thì làm nhân viên hợp tác xã phường, còn cậu trai út thì đang làm công nhân một công ty đúc bê-tông ở gần cầu Băng Ky.

 

Lúc ấy, thấy vẻ thiểu não của bạn mình, tôi rủ anh tối 24 tới nhà tôi nhậu lai rai chơi để hàn huyên tâm sự, nhắc lại kỷ niệm xưa… Đúng hẹn, anh đến và, như cái thói quen khó cải tạo của bọn tư sản là tặng nhau quà Giáng Sinh, anh cho tôi hai gói thuốc lá quốc doanh. Tôi xúc động quá và không thể bỏ qua được cái vẻ chán đời của bạn mình. Gặn hỏi thì anh hỏi ngược lại:

 

– Ông có biết trong tháng 12 hằng năm, quên lễ Giáng Sinh đi, hiện nay có ngày lễ lớn nào không?

 

– Chịu. Có ngày lễ lớn nào đâu?

 

– Đúng là ông còn sống trên mây. Lễ kỷ niệm ngày thành lập quân đội 22 tháng 12 đó. Ông không biết cũng phải vì nhà ông đâu phải gia đình bộ đội như tôi…

 

– Nhưng… thôi, vô một cái đi rồi nói. Gia đình toàn là bộ đội, thanh niên xung phong và công nhân viên như nhà ông thì nghe nói được phong tặng là “gia đình vẻ vang” gì đó, còn muốn gì nữa mà…

 

Anh bạn ngắt lời tôi:

 

– Còn “vẻ vang” hơn nữa kìa. Bà già tôi vừa làm tổ trưởng dân phố vừa làm tổ trưởng tổ phụ lão phường, được gọi là “cán bộ” luôn đó. Nhưng để lập thành tích chào mừng ngày 22 tháng 12 này, phường bắt nghĩa vụ luôn thằng em út…

 

– Ông nói nó đang là công nhân mà, không được miễn sao, nhà cũng có hai đứa đi nghĩa vụ rồi?

 

– Nè, còn đáng nói hơn chứ, một trong hai thằng đó là thằng thứ tư, đang làm trưởng ban văn hóa thông tin trên phường mà còn phải lên đường năm 1978, gọi là để làm gương cho thanh niên địa phương! Đã nói là cần vượt chỉ tiêu giao quân để lập thành tích cho phường nên người ta “hốt” hết, từ thằng thất nghiệp lêu lổng cho đến thằng công nhân sắp vô biên chế như em tôi. Tất cả mấy đứa dính nghĩa vụ sẽ được giao quân vào đầu tháng giêng tới. À quên nói là, cách “hốt” cũng hay lắm. Thôi để “dzô” cái rồi nói tiếp…

 

Anh bạn kể là sau ngày thằng em út của anh nhận lịnh nghỉ việc ở công ty để về nhà chờ ngày lên đường thì lạ một điều là người của ban quân sự phường thường hay đi lại trước nhà anh, kể cả ban đêm. Một đêm nọ… Là dân khá giả ngày trước nên nhà anh có sân trước sân sau đàng hoàng. Nửa đêm, mẹ anh nghe chó nhà hàng xóm phía sân sau cứ ăng ẳng sủa mãi, bèn thức dậy đi xem sự tình. Té ra, có một người mặc đồng phục màu cỏ, đang lom khom núp sau hàng rào…

 

Bà hỏi lớn: “Thằng nào đó bây?” thì người kia lẳng lặng rời khỏi chỗ núp, đi mất dạng. Hiểu ra sự việc, sáng sớm hôm sau, bà “mẹ chiến sĩ” đã có hai đứa con đi nghĩa vụ quân sự, quá phẫn nộ và thất vọng, đã lập tức lên phường lớn tiếng chửi – tất nhiên chửi một cách có văn hóa. Bà khẳng định rằng gia đình bà đã đóng góp nhiều đứa con đi nghĩa vụ và TNXP và tham gia việc công đến mức như ngày hôm nay mà chính quyền phường vẫn dửng dưng, thiếu tin tưởng, còn sợ thằng con út của bà trốn nghĩa vụ, đến mức cho người đêm ngày canh trước canh sau như chực ăn trộm, thì… dẹp hết, bà không làm tổ trưởng, tổ triếc gì nữa hết, trả lại luôn cái bằng khen “gia đình vẻ vang” gì đó.

 

Đúng là tôi dở hơi, cứ đến tháng 12 hằng năm là cứ lãng đãng hồi tưởng – như một sự níu kéo vô vọng – tìm cách sống lại héo hon những kỷ niệm mờ nhạt về một quãng đời yên vui. Cứ sắp đến ngày 24 tháng 12 là tôi đi tìm lại hình ảnh hân hoan một thời thơ ấu, tóc xanh của mình cùng các bạn bè xưa cũ, mà không hề biết còn có ngày 22 tháng này run rủi lại rất cay đắng đối với người bạn thân thương.

 

Đến hôm nay, đã trôi qua nhiều tháng 12 kết thúc các năm cũ, ông già Noel đã bao lần tặng quà Giáng Sinh cho bọn trẻ con, và lần nào ông cũng nháy mắt, cười hẹn trở lại vào mùa hội vui năm tới nữa. Mơ ước thầm lặng của tôi vẫn là chúng ta có thể cùng nhau phục hiện và chia xẻ những niềm vui chan hòa mà tháng 12 trao tặng như ngày xưa, cùng phẩy phui những chuyện buồn nào đó nếu như chúng vô duyên xảy đến vào tháng cuối năm…

 

– Phạm Nga

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.