Hôm nay,  

Nhà Thờ Chula Vista

24/12/202101:26:00(Xem: 2693)
dinh cuong mh
Minh họa: Đinh Cường



Thị trấn sa mạc Chula Vista tháng Mười Hai năm nay tự nhiên tuyết đổ trắng xóa phố phường. Người dân Chula Vista trăm người là cả trăm đi ra đi vô, than thở càm ràm,

 

— Trời ơi! Khùng ơi là khùng!

 

Cứ thế, gặp nhau, giáo dân nhà thờ Chula Vista bật ra ngay cửa miệng câu than nghe đến là nhàm. Câu than đều đặn phát ra như chuông đồng hồ điện tử sáng sớm rú lên từng hồi, “Tít! Tít! Tít!” Thôi đủ rồi, đừng rơi tuyết nữa, bởi dân du lịch trốn tuyết của Bắc Mỹ và Âu Châu giờ đã rục rịch dọn đồ bỏ đi trống hoắc phố phường. Nền kinh tế của thị trấn sát đường biên giới với Mễ chỉ trông mong vào khách du lịch mấy tháng cuối năm trời ấm áp, giờ này tanh banh chỉ vì tuyết bất ngờ đổ dầy từng tảng. Thì đấy, ai bảo chế cho lắm xe hơi vào, xăng dầu cứ đổ ồng ộc vô miệng như người chết khát. Giờ thán khí bốc lên xám đen bầu trời, thế là global warming.

 

— Hả? Nói cái gì?

— Điếc hả? Global warming chứ còn nói cái gì nữa. Không tin thì cứ leo hẳn lên nóc tháp chuông nhà thờ Chula Vista mà nom cho rõ. Khói xăng bốc cao đục ngầu cả cái bầu trời San Diego rồi. Sống ở đó, đố mà có nom thấy mặt người!

— Global warming! Rồi thì sao?

— Ơ hay! Có đọc báo nghe đài hay không mà mặt cứ ngớ ngẩn ra như gái Tijuana mới vượt đường biên giới vậy? Thì cứ thử nghĩ coi, cả trăm năm nay rồi, có bao giờ Chula Vista với San Diego đổ tuyết. Quanh năm suốt tháng khu này mùa xuân phơi phới. Thế mà giờ này tuyết rơi ngập đường!

 

Giáo dân nhà thờ Chula Vista cứ than, tuyết vẫn chẳng màng. Tuyết cứ thản nhiên đổ xuống từng tảng bông tuyết trắng xóa. Sáng trưa chiều tối, bốn cữ đủ cả bốn. Tuyết rơi bám trắng tháp chuông nhà thờ Chula Vista vươn cao sừng sững. Cha Quang, người gầy gò ốm yếu nom như dân bàn đèn thuốc phiện. Thế mà sáng trưa chiều tối lại cứ lom khom xách cái xẻng mới mua ngoài tiệm Home Depot ra sân nhà thờ rộng mênh mông cào tuyết. Dân Mễ sùng đạo đi ngang qua ái ngại,

 

— Sao cố không gọi ông Bõ làm cho?

Cha Quang nhìn lên, ánh mắt hấp háy như người mắt toét dưới cặp kính cận dầy cộm,

— Ông Bõ? Ông Bõ nào?

Ông đứng thẳng người, hơi thở đứt quãng,

— Hay là ông chịu làm Bõ thì ghé vào văn phòng ký giấy. Nhà xứ trả lương hẳn hoi.

Anh chàng thanh niên cười cười bỏ đi. Nhưng nghĩ sao đứng lại,

— Cố trả nhiêu một giờ?

Cha Quang chép miệng,

— Chắc cũng chỉ trả lương căn bản mà thôi…

Người thanh niên ái ngại nhìn “cố” Quang gầy ốm như cò ma và nhà thờ Chula Vista mái ngói bạc phếch. Anh chàng ngần ngại nói cám ơn, rồi bỏ đi thẳng một mạch.

 

Sơ Bề Trên gốc Anh, hiệu trưởng trường Mẫu Giáo nằm cách nhà thờ đúng hai góc đường ghé vào nhà xứ ăn nói dấm dẳng,

 

— Thì cha xúc tuyết ngày một lần thôi. Việc gì mà cứ phải vất vả ngày đủ bốn cữ!

 

Cha Quang không nói chi. Ông tiếp tục gặm cái bánh mì sandwich có kẹp miếng thịt nguội đỏ lờ lợ, cọng rau sà lách xanh úa, vài lát cà chua đỏ bầm, và một miếng cheese vàng khô queo.

 

Có người thương cảm,

 

— Đến là khổ. Cứ như người đi tu dòng khó khăn.

 

Có giọng tố khổ,

 

— Chỉ có vẽ chuyện! Tớ Việt Nam, ông cha Quang này hồi xưa ở gần nhà trên khu Little Saigon, lại còn học chung trường. Chuyện gì của ông mà tớ lại không rành. Hồi xưa cũng lăng nhăng lắm. Hết gái Mỹ lại tới Mễ, rồi bẵng đi một dạo. Giờ tự nhiên lại lạc xuống dưới đây làm cha xứ. Thật đúng là thời thế đảo điên…

 

Có âm thì thào,

 

— Thì đã gọi là chuyện phường chèo mà! Thế giới năm 2000 rồi, mở banh mắt ra mà coi. Cha cụ người ta, năm thay xe một lần. Thế mà đằng này cứ xe đạp cọc cạch. Rõ dở hơi!

 

Có lời chửi thề,

 

— Ừ! Ông nói đúng đó. Mẹ kiếp! Tối tối tôi còn nghe thấy tiếng phụ nữ ở trong nhà xứ nữa cơ!

 

Có tiếng bênh vực,

 

— Đừng có mà nói nhảm!

— Sao lại nói nhảm? Tớ là nói có sách, mách có chứng. Thì đấy, mới tuần trước, tớ dẫn con Ki ra ngoài đường cho nó đi ị. Con Ki tối hôm đó cuồng chân chạy toáng cả lên. Vớ vẩn làm sao lại đâm sầm vào ngay sân sau của nhà xứ. Bởi thế tớ mới rõ chuyện…

— Ông có nhìn thấy ba năm rõ mười hay không?

— Cần gì phải nhìn thấy! Đứng ngay bên cạnh hàng rào mà vẫn nghe rõ tiếng thì thào trong nhà bếp thì đủ rồi. Mà đây lại là giọng đàn bà. Thế mới chết chứ lị!

 

Tuyết vẫn rơi nhưng vẫn không che cản nổi hàng rào biên giới giữa Chula Vista và Tijuana. Từ bao lâu rồi, dân nghèo Nam Mỹ cứ nườm nượp kéo lên thành phố địa đầu biên giới Tijuana của Mễ Tây Cơ ăn chực nằm chờ, rình rình giây phút cắt đứt được hàng rào biên giới vượt thoát vào thiên đàng. Tá túc tại thị trấn địa đầu Tijuana, hết tiền, nhỡ độ đường. Vậy là gái Tijuana bán mình cho khách du lịch. Con trai chân cẳng cứng hơn. Có người vượt thoát đường biên giới. Rồi lần đường hương lộ xó xỉnh trốn lên Los Angeles rửa chén cho nhà hàng Tàu, hay là đi cắt cỏ cho người Việt. Nhưng đấy là hên, còn phần nhiều đều bị cảnh sát rượt đuổi, bắn què chân. Mỹ mà, tử tế ra mặt. Bắn què lọi giò con nhà người ta rồi. Nhưng vẫn gọi xe cứu thương chở vào bệnh viện rịt thuốc hẳn hoi. Cẩn thận, đồn biên phòng còn gửi tới một người thông dịch viên đàng hoàng. Chân vừa lành ngày hôm trước, ngày hôm sau xe cảnh sát hú còi ầm ĩ, mang người vượt biên tống thẳng về lại bên kia đường biên giới.

Có lần ông Đại úy Trưởng đồn biên phòng ngờ ngợ, ngón tay điểm mặt người vừa bị ông bắn què đang nằm lăn lộn trên nền đất,

 

— Lại tên này! Đúng là hắn rồi.

 

Ông lật ống quần jean bạc thếch của người thanh niên lên. Vết sẹo của cùng một viên đạn súng lục hiện lên, còn mới tươi. Bởi tuyết, có lần ông Đại úy hụt chân té lăn quay. Lồm cồm ngồi dậy, bấm đèn pin. Ông nhận ra dấu chân biến mất ngay tại sân nhà thờ Chula Vista. Ông gõ cửa nhà xứ. Cha Quang bước ra, ho sù sụ như người ho lao. Ông Đại úy gốc Irish con nhà đạo gốc gỡ nón cầm tay, lúng túng cất tiếng,

 

— Chào cha...

 

Cha Quang tránh sang một bên,

 

— Mời ông Đại úy vào trong nhà uống ly café Mocha của quán Starbucks.

 

Ông Đại úy kín đáo quan sát tình hình, nhã nhặn cúi chào,

 

— Cám ơn cha! Đang trong giờ làm việc, e không tiện…

 

Cha Quang nhìn theo bóng dáng của ông Đại úy, rồi nhẹ nhàng đóng lại cánh cửa nhà xứ. Ông Đại úy quay lại nhìn. Bóng cha xứ khẳng khiu ngồi lặng lẽ bên khung cửa, lời kinh nho nhỏ bắt đầu vọng ra. Ông Đại úy tay làm dấu thánh giá, bỏ đi về đồn biên phòng. Cũng có lần ông nhìn thấy vết máu dừng lại ngay cửa nhà xứ. Ông Đại úy lưỡng lự lắm. Con nhà đạo nòi cả mấy trăm năm nay rồi. Giờ chẳng lẽ lại đi hạch xách cha cụ. Nhưng còn tên tội phạm vượt biên. Rõ ràng là vết máu còn rành rành ngay trước sân nhà xứ. Ông Đại úy đã tính dợm chân bước hẳn vào trong nhà xứ uống một ly café Mocha của Starbucks. Nhưng nhớ tới áo chùng thâm đen và viền cổ trắng của cha Quang, ông lại lưỡng lự, rồi thôi.

 

Nhưng ông Thiếu úy Phó đồn thì không. Ngài Thiếu úy dân Tin Lành. Nửa đêm về sáng dộng cửa ầm ĩ, đòi cha Quang dắt đi xem xét từng ngõ ngách. Chưa hết, ông còn bắt ông cha xứ mở cửa dẫn vào gian cung thánh của nhà thờ lục tìm dưới chân bàn thờ và ngay dưới bệ Nhà Tạm!

Tối hôm nay, Hai Mươi Bốn tháng Mười Hai, lễ Giáng Sinh. Như thông lệ đã có gần hai trăm năm từ hồi lập giáo xứ, năm nay nhà thờ Chula Vista lại tổ chức thánh lễ nửa đêm vào lúc mười hai giờ. Sáu giờ chiều, cha Quang mở cửa bước vào nhà thờ. Ông vui vẻ nhận ra mọi sự đã sẵn sàng cho thánh lễ nửa đêm. Ông huýt sáo nho nhỏ, khoác vào người áo len dầy cộm. Nhìn tuyết trắng trơn trợt mặt đường, ông quyết định không đạp xe, nhưng đi bộ ra tiệm tạp hóa Đại Hàn mua thùng mì cay Nongshim. Tiện đường, ông ghé vào quán café Starbucks móc tiền ra mua mấy gói café Mocha loại thượng hảo hạng.

 

Vừa bước ra khỏi cửa tiệm quán café Starbucks, ông bị một bóng đen nhỏ thó bất ngờ xuất hiện cản lối. Cha Quang nhận ra khuôn mặt một cô gái, người Nam Mỹ, chắc khoảng mười tám, hai mươi. Trời chiều mùa đông nhờ nhợ tô thêm đậm màu da bánh mật căng căng và đôi mắt đầm đậm của cô gái. Thoang thoảng đâu đây mùi nước hoa rẻ tiền bốc mùi hăng hắc. Cô gái ngọng nghịu cất tiếng chào. Người đàn ông nhìn sâu vào đôi mắt xanh đậm nước biển, ông gật đầu chào lại. Cô gái cúi xuống, chỉ phía dưới, giọng chắc nịch,

 

— Bốn chục!

 

Người đàn ông hụp một nhịp thở, tim đập thật nhanh. Bình bịch! Rồi ông bỏ đi. Cô gái chạy theo, tay chỉ vào bộ ngực căng tròn,

 

— Hai chục đô.

 

Người đàn ông vẫn bỏ đi, cô gái đuổi theo,

 

— Mười! Chỉ mười đô thôi… Vậy là rẻ lắm rồi!

 

Ngay tới dưới gốc cây dừa cành lá rậm rạp che kín mặt người, bước chân người đàn ông chậm lại. Ông thở mạnh, hơi thở dồn dập. Ông cởi cởi bao tay, móc móc hai tay vào trong túi quần. Cô gái yên lặng bất động, kiên nhẫn chờ đợi. Người đàn ông móc ra tờ giấy đôla mười đồng. Cầm được tiền, cô gái cúi đầu chậm chạp cởi ra những nút áo len… Ngẩng đầu lên, cô chưng hửng nhận ra người đàn ông đã bỏ đi. Bóng ông ta khuất sâu vào màn đêm đông dầy đặc của đêm Giáng Sinh có tuyết rơi trắng xóa phố phường.

 

Về tới nhà thờ Chula Vista, cha Quang nhận ra bóng một người đang đứng ngay trước cửa nhà xứ. Tưởng ai, hóa ra là anh thanh niên người Mễ đã từng hỏi ông về số tiền lương làm Bõ cho nhà thờ Chula Vista.

 

— Mời anh vào uống ly café Mocha.

Người thanh niên lắc đầu,

— Cố! Cố cho con mượn cái xẻng xúc tuyết…

Cha xứ phá ra cười,

— Tôi đã nói rồi! Nhà xứ chỉ có đủ tiền trả lương căn bản mà thôi…

Người thanh niên lắc đầu quầy quậy,

— Không! Con không nộp đơn xin việc. Từ nay cố cứ để việc xúc tuyết mặc cho con.

Người thanh niên ngần ngừ, hai tay xoa xoa vào nhau, rồi lại đưa tay lên đầu vuốt vuốt tóc,

— Con vừa mới gặp Sơ Bề Trên. Sơ ấy nói cha xúc tuyết ngày đủ bốn lần. Sáng trưa chiều tối, cho nên bị sưng phổi, ho sù sụ như người ho lao.

 

Sơ còn nói…

 

Anh dừng lại, nuốt nước miếng, ánh mắt nhìn về trạm biên phòng ánh đèn sáng chưng một góc trời. Cha Quang tự nhiên nghiêm mặt lại! Không nói chi thêm nữa, ông bỏ đi thẳng vào nhà xứ. Còn lại người thanh niên đứng bên ngoài khung cửa! Anh cầm xẻng bắt đầu xúc tuyết, miệng nói nho nhỏ,

 

— Cố ơi! Thì mình cũng phải xúc tuyết để cho giáo dân đi lễ nửa đêm không trợt chân té đau chứ cố.

Lại thêm tiếng gõ cửa. Cha xứ ôm ngực ho sù sụ đi ra mở cửa. Tưởng ai, hóa ra Sơ Bề Trên, trên tay ôm mấy bọc café Mocha thơm lừng của Starbucks,

— Merry Christmas! Qua thăm cha, tiện dịp tặng cha món quà Giáng Sinh.

 

Cha xứ cau mày nhìn Sơ Bề Trên,

 

— Sao lại là café Starbucks?

 

Sơ Bề Trên nói ngay,

 

— Sao lại không? Cha cứ bày vẽ mua café loại mắc tiền mời khách khứa cho thiên hạ khỏi đàm tiếu nói thế kỷ hai mươi mốt rồi, mà cha vẫn sống khó nghèo kiểu cổ. Nhưng mà thôi, cái đó là tùy cha. Tuy tôi không đồng ý với cách sống khó nghèo như vậy, nhưng tôi vẫn ủng hộ cha.

Sơ Bề Trên đứng lên, tính đi về, nhưng lại ngồi xuống,

— Xin lỗi nếu lời tôi nói có đụng chạm! Nhưng đâu có phải là cha bán xe hơi phun khói ngập trời, lấy số tiền đó cho người nghèo. Rồi cứ cọc cạch đạp xe thì thế giới thôi không bị global warming đe dọa nữa... Cả hằng vạn người vẫn cứ tỉnh bơ lái xe hơi vậy thôi!

Nói xong, Sơ Bề Trên đứng lên bỏ đi. Cha xứ đóng cửa phòng lại. Bên khung cửa, ông vẫn thấy bóng dáng lum khum của người thanh niên Mễ đang xúc tuyết trước cửa nhà thờ. Ông ngồi xuống, tính coi lại bài giảng cho thánh lễ nửa đêm. Nhưng chợt ông nghe tiếng động sột soạt dẫm đạp trên sân vườn phía sau nhà?! Ông dừng lại, nghiêng tai nghe ngóng, mắt nhìn thật nhanh về trạm biên giới. Ông lẹ làng bước xuống nhà bếp. Mở cửa, nhưng không bật đèn sân vườn, ông cẩn thận nhìn ra bên ngoài. Bóng một người phụ nữ đứng lù lù ngay bên khung cửa không làm ông giật mình. Ông đứng tránh sang một bên, nhường chỗ cho cô gái bước vào. Dưới ánh đèn vàng tối tù mù của căn nhà bếp, ông nhận ra cô gái đang ôm trong lòng một đứa bé ngủ say, mặt thằng bé xám ngoét lại vì lạnh. Cha Quang vội vàng đóng lại cánh cửa. Ông bật máy sưởi, đưa tay mời cô gái lạ mặt ngồi xuống ghế nệm cạnh bên lò sưởi. Cha Quang cất tiếng hỏi,

— Cô ăn mì nhé…

Cô gái mệt mỏi gật đầu. Cha Quang đã bước đi nhưng ông dừng lại. Cặp mắt của cả cô gái và cha Quang đều trợn tròn nhìn nhau! Cô gái ngại ngùng cúi mặt nhìn xuống. Cha Quang quay lưng, đi thẳng tới bếp nổi lửa nấu mì Nongshim. Không quay lại, ông hỏi,

— Cô ăn cay có được không?

Cô gái vẫn cúi mặt, miệng nói nho nhỏ,

— Ngày nào mà tôi chẳng ăn thức ăn cay.

— Còn thằng bé?

— Nó mới bú sữa mua ngoài tiệm. Mười đôla, ba bình sữa.

Cô gái yên lặng ngồi ăn hết thật nhanh tô mì cay, tô lớn. Cô đứng dậy,

— Cám ơn cha. Hèn chi họ cứ gọi ông cha tử tế.

Cha Quang gật đầu không nói chi. Cô gái ngần ngừ,

— Nhờ cha giúp cho một chuyện…

Cô gái trao thằng bé cho ông. Cha Quang trợn tròn mắt,

— Giờ này tối khuya rồi, cô còn đi đâu nữa?

Khuôn mặt cô gái xa xầm lại, giọng nhỏ rưng rức,

— Còn đi đâu nữa… Không làm, lấy tiền đâu mà mua sữa cho con?

Cô gái cau mày khó chịu, buông lời nói thẳng thừng,

— Có được hay không?

Cha Quang gật đầu thật nhanh, tay ôm đứa bé vào lòng,

— Ồ! Được chứ. Chắc chắn là được rồi.

Rồi ông nói luôn,

— Tôi cũng có một chuyện.

Cô gái ngần ngừ,

— Cha có chuyện gì?

Cha Quang nhìn đồng hồ trên tường, chép miệng,

— Còn một tiếng đồng hồ nữa thôi là lễ nửa đêm rồi. Cô đi đâu thì đi. Nhưng nhớ quay về lại đây dự lễ Giáng Sinh.

Cô gái bỗng dưng cúi gập người xuống như cây bị sét đánh dính ngay giữa thân. Hai tay cô ôm mặt bật tung tiếng khóc, tóc dài quăn lọn buông rơi tung tóe. Bởi tiếng khóc, thằng bé giật mình cựa quậy, nhưng thật nhanh, lại nhoẻn đôi môi bé tí ti mầu hồng hồng cười tươi, nụ cười thiên đàng. Cha xứ cúi xuống vỗ nhè nhè bàn tay vào lưng thằng nhỏ, miệng cũng cười,

— Đêm nay Giáng Sinh. Dù có chuyện gì đi nữa thì mình cũng vẫn phải đốt nến ăn mừng sinh nhật chứ.

Cô gái ngưng tiếng khóc, ngạc nhiên hỏi lại,

— Sinh nhật? Sinh nhật của ai?

— Thì còn của ai nữa. Đêm nay là đêm Giáng Sinh. Cô quên rồi sao?

Cô gái ngẩng lên nhìn. Cô nhận ra ông cha xứ đang bước từng bước lên bậc thang gỗ mỏng manh ọp ẹp. Vừa đi ông vừa nói,

— Tôi cho thằng nhỏ lên phòng ngủ trước. Hẹn gặp cô lúc nửa đêm. À! Tối nay sau thánh lễ, tôi mời cô ăn tiệc Revillion với Mẹ Bề Trên và ông

Bõ mới của nhà thờ nhé.

 

Bên ngoài, tuyết bông vẫn đổ trắng xóa hằn soi bóng ông Bõ mới đang cắm cúi xúc tuyết trên sân gạch mênh mông của nhà thờ. Bên trong, lò sưởi cháy đỏ than hồng vẫn nổ tí tách tô hồng đôi má cô gái Tijuana đang nhắm mắt ngủ say. Đàn dương cầm từ trong nhà thờ Chula Vista nhè nhẹ nổi lên những nốt đầu tiên của bản nhạc Giáng Sinh bất hủ, “Silent night! Holy night!” Hồi chuông Giáng Sinh bắt đầu vang dội từ trên nóc tháp chuông. Kính koong! Kính koong! Tiếng chuông sinh nhật của hân hoan và mừng vui tiếp tục vang xa xé rách toang màn đêm của sầu tủi và nước mắt. Kính koong! Kính koong!

 

Thị trấn tuyết trắng Chula Vista bắt đầu nửa đêm.

 

Nguyễn Trung Tây

 

 

(Trích trong tập truyện ÔNG GIÁO BÁN MẮM, "Nhà thờ Chula Vista")

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.