Hôm nay,  

Duyên Xuân Hoa Giáp

28/01/202223:49:36(Xem: 3478)
Facetune-202201238971408167288070353
Minh họa: hình MC Thụy Trinh chúc Tết Mẹ - Xuân Nhâm Dần
  
Anh mở đầu cuộc chuyện trò với ông cụ bằng giọng nói nghe ra hớn hở:
 
-          Có người muốn xin mèo nhà mình về nuôi, bố ạ. Vậy con đưa hai đứa Xuân, Hạ sang nhà người ta và giữ lại Thu, Đông mà thôi.
 
-          Anh tìm hiểu kỹ người nhận chưa mà đem cho đấy?
 
-          Bố yên tâm. Con làm cán sự xã hội cho bà cụ này cũng đủ lâu. Ghé nhà cụ lần này mới biết ra cô con gái của cụ thích nuôi mèo, mà xin những hai con để chúng bầu bạn.
 
-          Lạ nhỉ! Cô ấy xem ra có sở thích giống anh. Không chừng cũng độc thân như anh?
 
-          Bố mới lạ! Ai lại hỏi như thế khi mới biết nhau?
 
Ông cụ thường ca cẩm anh con trai nuôi mèo từ một con đến cả đàn, từ đời cụ mèo đến chắt mèo trong khi chuyện vợ con chẳng hề nghĩ đến. Nhiều năm trước đám bạn anh phải tranh nhau mà xin mèo về làm thú cưng. Giờ thì họ không muốn xin nữa vì ngại chăm, hoặc dẫu có muốn chăm thì đã đến lúc chăm cháu nội cháu ngoại chứ không đến lượt thú cưng. Thế là lũ mèo của anh hiện tại còn những bốn con, được cái ông cụ thương anh con trai nên anh có việc đi đâu thì lại cặm cụi cho chúng ăn. Cụ nói xa nói gần:
 
-          Thú cưng chỉ sống một phần đời với ta nên ta đau khổ lắm nếu nó phải ra đi.
 
Anh nghe bố nói thì lặng yên giây lâu rồi đáp:
 
-          Nếu nghĩ như bố thì ai còn muốn nuôi? Thế bố có nghĩ ngược lại rằng thú cưng đã sống cả cuộc đời với con?
 
Ông cụ đuối lý. Nói chuyện với anh con trai độc thân xấp xỉ sáu mươi đôi lúc cũng dễ cáu kỉnh, cụ đành kiếm cớ ghé thăm người bạn học cũ hiện đang ở Nhà Già để trút nỗi buồn bực. Người bạn này con cái đã trưởng thành, khi vợ mất thì ông ta quyết định vào ở Nhà Già để không phiền các con. Người bạn luôn đón ông cụ với nụ cười trên môi, lắng nghe những băn khoăn lo lắng của ông cụ về con cái. Đến lúc chào tạm biệt ra về, ông cụ còn trầm ngâm với lời khuyên từ người bạn:
 
-          Ông nhớ tuyệt đối không can thiệp vào công việc của con cái, để chúng tự do thoải mái thì chúng mới ở với mình. Con cái vui mình vui theo còn chúng có chuyện buồn thì mình giữ im lặng.
 
-          Ông nói thế nào ấy chứ thế hệ mình có biết bao kinh nghiệm và vốn sống cần trao truyền.
 
-          Ôi dào lại còn trao với truyền. Này nhé, những thứ ấy của ông chỉ nên để chiêm nghiệm cho bản thân, cùng lắm là biến chúng thành những câu chuyện trào phúng mà tự ngẫm thôi. Giả như muốn chia sẻ, chỉ nên kể những câu chuyện hoài niệm ấy với bạn hữu cùng thời.  
 
Dù nghe không xuôi tai lắm nhưng ông cụ lại có phần nể nang ông bạn già, người đã quyết định sống xa con cháu mà xem ra vẫn an nhiên, tự tại. Riêng bản thân ông cụ, sau khi bà cụ mất thì ông chỉ còn biết sống dựa vào anh con trai và mong mỏi anh yên bề gia thất. Nghĩ đi nghĩ lại, ông cụ thấy điều bạn ông khuyên xem ra hữu lý: chuyện mỗi thời một khác nên không thể đem lý lẽ của mình mà áp dụng cho con cái, đã không những không hiệu quả mà đôi khi còn trái ngược. Chẳng hạn ông cụ thi thoảng đặt câu hỏi khiến anh con trai nhăn nhó:
 
-          Bao giờ con cho bố uống rượu đây? (Ngộ nhỡ con ông cố ý không hiểu mà đối đáp: “Ơ hay, bố uống rượu hằng ngày đấy thôi!” thì có phải ông đâm cụt hứng?)
 
Hoặc có lúc ông cụ lại nhắc khéo:
 
-          Bạn bè của bố mẹ đều lên chức ông bà rồi đấy! (May là anh chỉ ậm ừ, không trả treo cái kiểu: “Bố mẹ lớn tuổi thì được gọi là ông bà thôi chớ đâu cần phải đợi khi có cháu?” thì chẳng phải ông còn biết nói gì nữa!)
 
Thực sự, đã có lúc anh con trai nổi bướng mà lập luận rằng chẳng lẽ cứ phải sống trên đời, có chồng hay có vợ và con cái mới là bình thường còn những ai làm khác thì bị xem là bất bình thường hay sao?
 
Thì ra triết lý về cuộc sống, mạnh người nào người nấy chiêm nghiệm. Trẻ hiểu theo cách của trẻ, già hiểu theo cách của già, không có khuôn mẫu. Ai cũng có cung cách sống riêng, khó ai có thể bỏ đi quan niệm của mình mà tiếp nhận một quan niệm khác.
 
Một buổi sáng cuối tuần, anh vỗ nhẹ đầu Xuân và Hạ lúc đó đang vờn nhau cuộn len trong khi Thu và Đông lặng lẽ cuộn tròn sưởi nắng:
 
-          Tụi con về nhà mới với mẹ phải ngoan nết nhé.
 
Đến khi Xuân và Hạ được đặt trong giỏ xách gọn gàng, hai con mèo còn lại đang nằm lim dim bỗng giật mình với tiếng kêu meo meo, vội mở to đôi mắt bi ve và rón rén tiến gần chiếc giỏ, ý chừng không chịu rời xa hai đứa kia. Anh vuốt khẽ từng cái mũi hồng hồng ươn ướt của Thu và Đông mà thầm thì:
 
-          Rồi thỉnh thoảng bố cho đi thăm.
 
Ông cụ nghe mà mủm mỉm cười, vui lây với mái ấm riêng mà anh con trai đang có với lũ thú cưng. Nhớ khi bảo lãnh được anh con trai duy nhất sang xứ người thì tuổi của anh đã vượt qua tam thập nhi lập. Hòa nhập được với nền văn hóa và ngôn ngữ khác biệt là một thử thách, tìm một công việc phù hợp với năng lực và sở thích đối với anh lại càng khó hơn. Ý thức bổn phận đối với bố mẹ độ tuổi bóng xế khiến anh đành bỏ dở mọi dự tính của một người bình thường. Có những khoảng thời gian anh thấy mông lung chao đảo, lái xe ra ngoài hoặc đi bộ lang thang bất cứ đâu mà không cho bố mẹ biết và họ chỉ cảm thấy thật nhẹ nhõm khi anh còn quay về nhà. Có hôm anh còn lái xe lên tận trường đại học cũ, đứng ngắm nhìn từ ngoài cổng như gác lại giấc mơ còn dang dở. Rồi anh cứ tiếp tục sống phụng dưỡng bố mẹ mà quên rằng chính bản thân mình đang già đi, khó mà tìm một người bạn đời để có thể khỏa lấp nỗi cô đơn dần bủa vây anh. Bỗng dưng một buổi nọ có một chú mèo lạc loài xuất hiện, mon men kết thân mỗi khi anh cho nó ăn. Từ đó trở đi cả người lẫn mèo không còn cảm giác lạnh lẽo nữa, cả hai đều tìm được một thứ hơi ấm mang tên “gia đình” rồi thời gian dần khiến anh quay trở lại được cuộc sống thường nhật.
 
Nghe tiếng chuông nhấn thì cô con gái như đã chờ sẵn để mở cửa. Cô đã nghe bà cụ nói trước rằng anh sẽ đem tặng hai con mèo. Cô chìa tay cho Xuân và Hạ quen hơi trước khi có thể vuốt ve bộ lông mượt mà của chúng. Từ chỗ rụt rè, gầm gừ nho nhỏ cho đến lúc cảm thấy yên tâm, bọn mèo đã chịu nằm ngoan.
 
Cô nói với anh như thể phân trần:
 
-          Mẹ tôi mãi mới chịu cho tôi nuôi mèo bởi lẽ cụ thích nuôi gà hơn.
 
Bà cụ đáp lại con gái:
 
-          Đúng là tôi thích ra vườn xem gà hơn nhưng ngặt cái gà hay bị rù vào mùa lạnh nên tôi đành chiều cô đấy.
 
Anh hỏi nhỏ cô thế nào là con gà rù. Cô chưa kịp đáp thì bà cụ nghe được bèn trả lời:
 
-          Con gà nào bị rù là xõa cánh sát đất, đứng yên một chỗ, lù đà lù đù, trông như người khoác áo tơi ấy mà.
 
Một lần nữa anh lại ngẩn người vì kỳ thực anh cũng chẳng rõ chiếc áo tơi ra sao. Bà cụ như đọc được nỗi thắc mắc của anh lại giải thích:
 
-          Thời xưa người ta phải khoác áo tơi để tránh nắng che mưa. Vật liệu áo tơi làm bằng lá cọ khâu chồng thành lớp như kiểu lợp ngói để nước mưa trôi nhanh. Làm xong tấm áo rồi thì tạo dây rút ở cổ nên trông cứng như cái khung quanh người khoác nó.
 
Lối nói chuyện của bà cụ khiến anh tẩn mẩn gom được khối câu hỏi đem về nhà đánh đố ông cụ:
 
-          Bố có biết “cái cóng” là thứ gì không? Bà cụ nhờ con lấy hộ mà con phải hỏi lại đấy.
 
-          Thì là cái hũ đựng bằng sành miệng rộng có nắp đậy hình trụ chứ gì nữa.
 
-          Vậy bà cụ bảo “hượm đã” nghĩa là sao?
 
-          Tức là “khoan đã”, là “chờ một lát”, là “làm gì mà vội thế” chứ sao?
 
Rốt cuộc thì bố anh phải gật gù công nhận bà cụ quả là người trữ cả bồ “chữ xưa”. Tuy nhiên, đối với cô con gái của bà cụ thì anh không phải vắt óc mà đoán nghĩa của chữ đâu.
 
-          Cho hỏi chút xíu.
 
-          Cứ hỏi nhiều đi.
 
Người hỏi, người đáp chuyện đời thường. Cô kể anh nghe về nết ngoan của mỗi đứa mèo, chỉ cái tội chúng bắt đầu biết làm nũng ăn vạ, về đôi chim từ đâu bỗng dưng bay đến kết tổ trên một cái cây ở vườn sau, về một em bé nào đó có thể được mẹ bế hoặc ngồi xe đẩy mà bị tuột rơi chiếc giày bé xíu ngay lối đi bộ trước mặt nhà khiến cô phải treo chiếc giày nơi nhánh hoa giấy nhoài ra đường để mẹ bé dễ thấy nếu muốn tìm lại, v.v… Còn anh kể cô nghe những chuyện vô thưởng vô phạt, hình như chỉ cốt làm cô nhoẻn miệng cười xinh.
 
-          Tôi mà nói xạo thì không xí-lắt-léo cũng xi-cà-que.
 
Nhắc nhớ lời thề thốt mướt rượt thời trẻ con hay nói với nhau: nếu nói láo mà không bị chết thì cũng bị lọi giò. Têu tếu nhưng sao cũng ghê ghê. Ấy vậy mà các mẩu chuyện xưng hô trống không chẳng đầu chẳng đuôi giữa cô và anh xem ra lại là một tiếu liệu pháp khiến hai người thường cười giòn giã.
 
Khi những cuối tuần đang trôi về cuối năm cũ để đón Tết sắp đến, anh tạt qua bà cụ và cô thường hơn để xem Xuân và Hạ đã quen với nếp sống mới chưa. Thấy con gái quấn quýt bên mèo, bà cụ chép miệng bảo:
 
-          Lúc trẻ hơn mà cô chịu lấy chồng thì hẳn đã mỏi tay bồng bế.
 
Bà cụ ví cô con gái như trâu quá sá, mạ quá thì. Trâu không còn thích hợp với việc đồng áng nữa còn mạ thì quá lứa. Ngày trước ở quê bà đến tuổi này bị xem là muộn chồng và mặc định thành “bà cô già”. Cô nghe mà chạnh lòng, đâm giận lẫy miệng đời. Thời buổi này mà thiên hạ còn xét nét quá đỗi. Cô đến sáu mươi tuổi mà chưa lập gia đình thì cũng mặc kệ cô đi.
 
-          Nước trong quá sẽ không có cá, con ạ. Cách nhìn nhận chuyện đời của con chưa uyển chuyển nên chưa có con cá nào dám bơi đến.
 
-          Mẹ cứ nói con phải mở lòng. Con lúc nào cũng mở lòng đấy thôi nhưng đâu phải cứ thế là yêu ngay được ai đó.
 
Anh bất chợt nhìn ra cô cũng chịu áp lực tương tự như mình. Chuyện cha mẹ già mong con cái đã nhiều tuổi kết hôn là lẽ đương nhiên, nhưng sự mong muốn ấy cũng không thể bằng người trong cuộc. Cha mẹ già quên mất rằng tình yêu phải bắt đầu từ sự cảm nhận của trái tim và rằng có phải ai cũng đạt được điều thỏa nguyện mong ước đâu. Suy cho cùng thì mỗi người phải tự chịu trách nhiệm với cuộc đời mình dù khổ đau hay sung sướng bởi vì chẳng ai có thể chịu đựng thay.
 
Thấy cô ngồi bó gối rầu rầu bên Xuân và Hạ, anh tự hỏi đời này hà cớ chi phải muộn phiền. Tại sao cô phải để tâm trí vào lo âu điều tất nhiên của cuộc đời mà quên lãng bao nhiêu điều tuyệt đẹp bên đời trong khi điểm dừng còn rất ngắn. Cứ ngẫm thế này: đi qua mỗi chặng đường đời, lại thấy phía trước bớt dài, bớt mù mịt, bớt chông chênh; còn nhìn lại phía sau không thấy gì mình phải tiếc nuối, vậy là được. Biết mình chưa đủ thân để thốt lời an ủi cô, song anh vẫn buột miệng:
 
-          Tuổi Dần như tôi bị xem là cao số đấy chứ nhưng tôi thấy có buồn gì đâu, cô ạ!
 
Bà cụ nghe mà kêu lên kinh ngạc:
 
-          Ơ hay, hóa ra anh cùng tuổi với cô út nhà này, thảo nào mà cả hai độc thân. Đến Tết này cả anh lẫn chị chạm ngưỡng Lục thập hoa giáp rồi đấy.
 
-          Thì ra cụ biết xem cả tuổi. Cụ thử nói tuổi của con ra sao.
 
-          Chuyện! Cứ nhìn con gái tôi thì đoán được tuổi anh thế nào rồi chứ không cần phải nghiên cứu nghiên kiết gì đâu. Này nhé, Nhâm Dần là con hổ từng trải qua khó khăn ở tiền vận. Người tuổi Nhâm Dần mang mệnh Kim bản lĩnh, quyết đoán nhưng xem ra cô độc và bôn ba nhiều đấy. Đường tình duyên của Nhâm Dần đến tuổi này mà còn độc thân thì quả là lận đận, thờ ơ, đúng không nào? Nhưng tin tôi đi, bước sang trung vận thì tình duyên khởi sắc, cuối cùng thì cũng tìm được bến đỗ bình yên, chỉ cần thời gian để kết nối khoảng cách.
 
Đoạn bà cụ lại nhắc nhở:
 
-          Đến tuổi sáu mươi, phải giữ mồm giữ miệng.
 
Bà cụ nói một câu mà ẩn hai ý. Cái mồm cái miệng là để ăn để nói. Sống đến tuổi này rồi thì cần ăn uống chừng mực, nếu đổ bệnh thì lấy đâu hưởng phần đời còn lại. Lại thêm không nên nói đại nói bừa mà gây hiềm khích. Vậy thì cả thân lẫn tâm đều phải chú trọng ngang nhau.
 
-          Tôi giục cô ấy cứ đi lấy chồng, không phải lấy cớ bịn rịn mẹ già nữa. Nó mà an yên rồi thì tôi về ở với anh chị lớn của nó là xong. Lại thêm phần tuổi tôi đã đến lúc đi về phía bên kia mặt trời rồi. Bất cứ cái gì tồn tại nguyên vẹn lâu quá chỉ tổ làm cho xã hội trì trệ.
 
Phàm là người, đến lúc nào đó thì ai cũng chết. Chúng ta là người. Chúng ta cũng sẽ chết. Hỏi rằng ai có thể chối bỏ tam đoạn luận về cuộc sống? Tuy vậy, anh bất ngờ trước những suy nghĩ thực tế của bà cụ. Đối với nhiều người, già đi nghĩa là cái chết đang đến gần. Dẫu biết rằng sinh – tử là quy luật của tự nhiên và không chừa một ai nhưng nhiều người già vẫn sợ phải đối mặt với cái chết. Mới vừa đồng cảm với cô con gái, giờ đây anh lại thương cảm bà cụ. Anh chỉ biết an ủi bâng quơ:
 
-          Vâng, thôi thì trời kêu ai nấy dạ!
 
-          Tôi điếc, gỡ máy trợ thính ra thì chẳng nghe trời gọi mà dạ đâu!
 
Anh bật cười. Xem ra bà cụ có óc hài hước đó chứ! Giọng nói nhuốm vẻ ưu tư trước đó giây lâu giờ lại hóm hỉnh. Mà nhắc chi mai kia mốt nọ mình sẽ già, câu chuyện đã đến lúc chuyển đề tài:
 
-          Thế năm mới sắp đến hẳn cụ chuẩn bị các thứ để ăn Tết?  
 
-          Tôi già rồi, không ăn Tết anh ạ. Chỉ chơi Tết thôi.
 
Lời cụ nói lại nghe thâm thúy. Cắm rễ nơi xứ người đủ lâu thì Tết hồi ức phần nhiều trở thành Tết cổ tích, xuân hoài niệm trở thành xuân xưa. Dù Tết xứ người dần dần mất đi nhiều phong tục, phôi pha dần cái cảm xúc lâng lâng cho thời điểm cuối năm nhưng anh vẫn bắt gặp Tết luôn đẹp trong ký ức những con người như bà cụ hoặc bố anh.
 
Bà cụ nhắc đến thú chơi hoa Thủy tiên mà cụ đã phải từ bỏ vài năm nay vì tay run không thể gọt tỉa được nữa. Chỉ mới mường tượng dáng một bà lão nâng niu cái bát thủy tinh có đế vừa được lau chùi tỉ mỉ để chuẩn bị bày Thủy tiên là anh đã thấy lòng mình Tết quá. Lại thêm bà cụ vui ra mặt khi nghe anh nói biết chút ít về thú chơi này. Bà cụ nhờ anh đưa cô con gái đi chọn mua những củ Thủy tiên và chỉ cô gọt tỉa. Thường thì bà cụ hoạt ngôn, nhưng đến khi thấy anh và cô đem về những củ Thủy tiên tròn chắc, vỏ ngoài có vân mỏng màu cánh gián sẫm thì biết anh hẳn là người chơi hoa cầu kỳ nên chỉ yên lặng xem anh làm mà thôi.
 
Anh chỉ cô cách xác định hướng của mầm hoa để tỉa, bóc vỏ củ đúng mặt, riêng mặt bên kia không gọt để phát triển bình thường. Ôm quanh giò Thủy tiên là khóm lá được xén cẩn thận để tạo dáng cong, chỉ uốn lượn thấp nhằm không che lấp mất hoa. Anh còn nhắc một khi đã cầm con dao gọn bén để gọt tỉa Thủy tiên thì tâm ý phải luôn thận trọng, tỉ mỉ, kẻo cắt phạm vào mầm.
 
Thấy cô suýt soa với các vết cắt gọt trên giò Thủy tiên, anh trấn an:
 
-          Thủy tiên mạnh mẽ lắm, các vết sẽ lành chỉ sau vài ngày đấy thôi.
 
Thủy tiên mang vẻ đẹp kiêu sa do tính thuần khiết nên kén nước sạch và trong. Nơi xứ người kiếm đâu ra bể nước mưa mát lành hoặc giếng khơi trong vắt thế nhưng bà cụ có kinh nghiệm thủy dưỡng cho “nàng tiên nước” theo cách của mình. Suốt mùa đông, trừ những ngày mưa đầu mùa trút xuống còn mang theo bụi bặm, còn thì những ngày sau đó cụ chiết nước mưa tinh khiết để dành. Cứ chịu khó mỗi ngày thay nước để củ và rễ luôn sạch sẽ không bị úa màu thì đến lúc ngắm hoa nở mới thấy công sức bỏ ra được đền bù xứng đáng.
 
Trong lúc cô mơ màng ngắm giò thủy tiên với những mầm hoa hứa hẹn, anh hỏi khẽ:
 
-          Thế cô có biết tại sao Thủy tiên còn được gọi là hoa “đĩa bạc chén vàng” không đấy?
 
-          Tôi nghĩ nhụy hoa vàng rực rỡ trông tựa chiếc chén vàng đặt trên mấy cánh hoa nở vành ngoài trắng muốt như chiếc đĩa con.
 
-          Đúng vậy.
 
Bà cụ thì ra vẻ hài lòng khi ngắm nghía giò Thủy tiên:
 
-          Anh khéo tay đấy! Kiểu gọt lá dưới, hoa trên đã bị thất truyền khá lâu mà anh lại biết. Ít hôm nữa củ sẽ mọc rễ tua tủa tựa như chùm râu bạc phơ của tiên ông đấy thôi.
 
-          Vâng, tùy cách sáng tạo của người chơi Thủy tiên mà mỗi kiểu dáng đều có biểu tượng, ý nghĩa riêng. Con thì nghĩ khi gọt tỉa cần chú ý sao cho lá uốn thấp, hoa cao nhỉnh hơn và hướng ra tứ phía chứ không cao nhổng như người mới chơi thường gọt.
 
Chơi hoa thủy tiên nơi xứ người là để nhớ về cố hương. Ngắm hoa mà thấy cả sức sống diệu kỳ trong cái tưởng như mong manh, lặng thầm. Đối với những ai trong tâm thế sống vội thì hòng dễ có được những khoảng khắc tĩnh lặng để thưởng thức vẻ đẹp của một giò Thủy tiên từ hương thơm thanh thoát, hoa trắng muốt tinh khiết, lá xanh mướt, củ để lộ phần vỏ xén như những móng rồng màu trắng sữa cho đến kiểu dáng rễ độc đáo. Người sành chơi còn biết tính toán sao cho thời khắc giao thừa có được những bông hoa Thủy tiên nở viên mãn thì xem đó là duyên lành, điềm may mắn.
 
-          Thế cụ có bao giờ nghe người ta gọi hoa Thủy tiên là Nhã toán?
 
Lần này bà cụ lắc đầu chịu thua còn anh thì ngầm đắc ý do được bố anh mách nước.
 
Sáng sớm mưa xuân lất phất ướt nhẹ mặt sân, trưa và chiều hửng khô ráo, thật khéo chiều lòng người. Những lọn gió thơm thoảng mùi hoa Thủy tiên gợi nhớ tách trà nóng xua tan khí lạnh. Bởi bà cụ có tay ướp trà, nhà lúc nào cũng sẵn trà ngon đãi khách. Rải một lượt trà khô cánh nhỏ thì lại rải đến một lượt hoa Thủy tiên, cứ như thế mà đầy ắp cái âu sứ men lam đem từ quê nhà sang. Bà cụ đậy kín với lớp giấy sáp mỏng rồi đem phơi sương đêm, canh lúc vừa bình minh sáng hôm sau thì đem vào. Có như vậy thì hương Thủy tiên hòa lẫn vị đất trời mới len lỏi vào từng cánh trà. Pha trà xong, bà dặn dò trước khi chống gậy dạo quanh vườn:
 
-          Thưởng thức trà thì không thể tùy tiện. Vội vàng thì không cảm nhận được hương vị của trà. Mà chần chừ quá thì trà nguội, phải hâm lại mất ngon.
 
Anh và cô nâng tách mời nhau. Nhấp ngụm trà ướp Thủy tiên, cô thấy nụ hoa như đang nở trên môi mình tỏa hương nhè nhẹ. Còn anh uống nhẩn nha tách trà mà thấy lửa ấm trong lòng. Trà như thấm đượm nỗi niềm của hai người.
 
Thời gian bây giờ dường như bay chứ chẳng trôi như trong thi văn mô tả nữa. Con người ta dừng lại, nhìn tới nhìn lui, thấy sao “cái tuổi nó đuổi xuân đi.” Cô chẳng còn trẻ. Cái lứa tuổi nắng thấp nhưng duyên chưa nhạt. Anh thì bạc tóc mà chẳng hề bạc lòng. Gió rét hun hút giật từng cơn như nhắc hai người sắp thêm một tuổi nữa. Gió rét về họ thấy nhức xương nhức cốt đồng đều. Họ tủi thân y chang nhau. “Lục thập nhi nhĩ thuận.” Sắp đón nhận vòng xuân hoa giáp, anh và cô hẳn thấu hiểu sự lý của chuyện đời qua kinh nghiệm bản thân mà cư xử với nhau cho phải lẽ.
 
Có biết đâu ai đó đang loay hoay một lời ngỏ làm quà sêu Tết mà sao vẫn tắc tị? Thôi đành mượn lũ thú cưng mà nói bóng gió, nói bâng quơ để biết đâu ai khác nghe tỏ.
 
-          Tết sắp đến rồi mẹ của Xuân, Hạ có ưng để tôi và Thu, Đông kết thân cho vui vầy không?
 
Có những khoảnh khắc yên lặng. Người mở lời tự thấy mình quê. Ủa, cô không tin sao? Bộ coi như chuyện nói chơi rồi bỏ chắc? Sao cô làm khó anh chi vậy? Cô ngó mà không thấu ruột gan anh sao chứ? Lúc này anh cần nắm lấy đôi bàn tay của cô hơn bao giờ hết. Nắm tay cô thật dạn dĩ để đi hết phần đời còn lại của cuộc đời. Nắm tay nhau tận khi quắt khọm thì lúc đó chỉ có thể nhìn nhau móm mém cười mà thôi. 
 
Ý còn ẩn, mà lòng người nghe tan chảy. Dẫu vậy, cô chỉ cười nụ, cho rằng bộ hết chuyện hỏi rồi hay sao. Bỗng dưng cô cũng muốn đưa bàn tay ngón thương ngón nhớ đan xen của mình nắm lấy cái bàn tay vững chãi đã bày cô gọt tỉa loài hoa tiên nước. Nhưng sao vẫn rụt rè. Nhân duyên không tự nhiên mà có nhưng cũng không tự nhiên mà đến. Cô hiểu rằng nếu không biết dưỡng duyên thì nhân lành cũng mất. Hạnh phúc được chia đều thì số phận cũng phải chia đều. Vả lại, có những lựa chọn phải đợi đến phần nốt của cuộc đời mới dám kết luận là mọi thứ đều thuận theo chữ duyên.
 
Thôi thì đôi bên yên lặng tự hiểu. Liệu Thủy tiên có nở kịp đón xuân để họ mượn mật ngữ của hoa mà mở lòng với nhau?
 
Trở về nhà, anh lại kể bố nghe chuyện bà cụ gần chín mươi tuổi. Cứ mỗi lần anh chào tạm biệt ra về thì y như rằng bà cụ tiễn anh bằng lời quyến luyến:
 
-          Cậu nhớ nhé, hứa là khách của tôi mãi đấy!
 
Bà cụ cứ mong anh là khách, thế thì cứ xa lạ hoài sao, anh tự hỏi. Bố anh nghe mà tủm tỉm cười:
 
-          Bà cụ muốn kết tình thân hơn, chỉ tại anh không nhận ra thôi.
 
Không để con trai phải đợi, ông cụ nói ngay:
 
-          Anh không nghe các cụ ta nói “dâu là con, rể là khách” đó ư?
 
Anh ngẩn ngơ hồi lâu, đoạn khẽ hỏi:
 
-          Vậy thế ngày xưa bà ngoại con có nói câu đại loại như thế với bố trước khi bố lấy mẹ không?
 
-          Mẹ con mồ côi sớm nên bố chưa gặp mặt bà ngoại.
 
Lại đến lượt ông cụ hỏi tẩn mẩn:
 
-          Ừ mà cả bà ngoại lẫn bà nội con đều mất sớm thì khi xuống dưới đó không rõ hai bà có rõ mình là thông gia của nhau không nhỉ?
 
-          Bố còn không biết thì con sao biết được? Nhưng ít ra bây giờ bố biết ai sẽ là thông gia của bố đấy chứ.
 
Ông cụ sửng sốt, chỉ e mình nghe nhầm. Định thần hồi lâu, ông cụ mừng khấp khởi, phải chăng anh con trai nói chuyện về cô mèo hai chân một cách nghiêm túc? Vậy là anh bắt đầu nghĩ đến một người bạn đời cho mình. Ông cụ lẩm bẩm hồn nhiên đủ để nghe một mình: “Ấy bố cứ tưởng nọ nay anh kể chuyện về bà cụ là anh muốn bố gá nghĩa cùng bà cụ cơ chứ. Thôi thì tình riêng không có thì tình thông gia cũng được chứ sao.”  
 
-          Mai anh ướm lời với bên ấy để bố qua hầu chuyện cụ bà thông thái.
 
Sự đời không có gì là bất khả. Chuyện gì cũng có thể tiến nhanh hơn chuyện mở lời. Trong gió xuân mơn man dịu dàng, người ở tuổi xuân hoa giáp tỏ tình chậm, nhẹ. Chậm, nhẹ thế nào thì cũng đừng trù trừ thêm nữa, chàng trai, cô gái ạ! Vòng xuân hoa giáp chỉ đến một lần trong đời mà thôi.
 
Lạ lùng, đời nay còn có những chuyện cổ tích mùa xuân tưởng không thật mà hóa ra thật không tưởng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.