Hôm nay,  

Valentine's Day, Ngày Của Tình Yêu

14/02/202216:29:00(Xem: 2881)

Valentine's Day -- Tản mạn


Happy Valentine.jpg


Ước gì ngày nào cũng là ngày của tình yêu, người này yêu thương người kia, không có thù hằn, không có chiến tranh, người giàu giúp người nghèo, nước giàu giúp nước nghèo, những đứa trẻ nào sinh ra và lớn lên được đến trường học, học đến thành tài.

Thánh Valentine tử đạo cũng vì tình yêu. Thánh Valentine tử đạo vào ngày 14/2 cuối thế kỷ thứ 3, nhưng thánh vẫn sống đến bây giờ và sống mãi trong lòng của những người yêu nhau. Thánh Valentine tử đạo vì tình yêu, nhưng tình yêu của ngài vẫn mãi mãi còn ở đây, còn trong trái tim của những người Công Giáo và người không Công Giáo. Tình yêu này ở mãi mãi trong lòng mọi người khắp thế giới, vì tình yêu mà thánh bị tử hình, vì tình yêu, vì việc làm cho tình yêu mà hy sinh mạng sống của mình. Tình yêu sao mà tuyệt vời, tình yêu sao mà cao cả. Nếu người nào cũng vì người khác mà chết chắc thế giới này đi đâu cũng nghe ca tụng tình yêu. Không có chiến tranh, lòng người không thù hằn nhau, không ghen ghét nhau, tình yêu giữa người nam và người nữ, tình yêu của các vị lãnh đạo tôn giáo với các tín đồ của mình, tình yêu của bằng hữu với nhau, tình yêu của người cùng huyết thống, tình yêu của ông bà cha mẹ, của anh chị em, tình yêu của đồng nghiệp, tình yêu của người với người. Người này yêu người kia không phải người đó giỏi quá, người đó tốt quá, có thứ gì đó mà không phân tích được, khi người ta yêu thương nhau không có phân tích tại sao tôi yêu người đó, yêu thương trước sau đó mới biết vì người nào đó là mạng sống của mình, trong đời sống của mình không thể thiếu người nào đó được.


Có những người sống với nhau mấy chục năm mà còn cảm thấy chưa đủ, khi người này ra đi thì người khác cảm thấy đời sống không còn thú vị nữa, hình như người đã ra đi mang theo sự sống của người còn lại. Có nhiều người đời sống vui tươi lắm, lúc nào cũng tươi cười, ngày nào cũng là mùa Xuân, mùa Xuân trong giọng nói reo vui, mùa Xuân trong ánh mắt rực rỡ yêu thương, nhưng có một ngày nụ cười đã tắt, tiếng nói không còn reo vui, mắt không còn sáng rực như ngày xưa, không phải vì tuổi tác chồng chất nhưng vì mất mát một tình yêu lớn nhất trong cuộc đời của mình.


Swan Love.jpg


Ôi, đẹp quá ngày của tình yêu, người này biểu lộ tình yêu của mình bằng nhiều cách khác nhau. Những tiệm bán hoa đầy ngập người đến mua hoa để tặng cho người mình yêu, tiệm bán bánh, chocolate cũng tăng giá vì ngày của tình yêu. Các nẻo đường, góc phố đầy người đứng bán hoa, hoa bán ở dọc đường không đẹp, những người nghèo thì mua hoa ở góc đường, không đẹp nhưng vẫn tươi, hoa tượng trưng cho tình yêu, tình yêu muôn thuở. Có người không có tiền thì vẽ hoa trên giấy hay hái hoa ở vệ đường hay ở rừng núi tặng cho người mình yêu. Ở Việt Nam, yêu ai thì để trong lòng, nhưng ở các nước tân tiến yêu ai thì nói ra, không phải chỉ nói bằng ánh mắt thầm lặng, mà thể hiện bằng lời nói, bằng hoa, bằng nhạc, bằng thơ.


Ngày xưa ở Đà Lạt có một loài hoa màu xanh, màu vàng, màu tím mọc ở rừng núi tên là "Forget me not" (Xin đừng quên tôi). Sự tích loài hoa này rất lãng mạn nhưng rất đau thương. Một chàng hiệp sĩ người Anh đưa người yêu của mình lên rừng ngắm hoa dại ở rừng núi. Chàng hiệp sĩ mặc áo giáp, mang kiếm, người nặng nề vũ khí của chiến tranh. Bên kia dòng suối chảy mạnh là một khóm hoa dại. Cô gái chỉ tay vào khóm hoa dại và nói em thích những hoa đó. Chàng hiệp sĩ vội nhảy xuống dòng nước đang chảy mạnh để hái hoa cho người yêu của mình. Nhưng than ôi, bó hoa thì cầm trong tay mà dòng nước xoáy mạnh quá, chàng hiệp sĩ không đủ sức mạnh để chống chọi với dòng nước. Trước khi chàng chìm xuống, chàng còn ném bó hoa lên bờ cho người yêu và nói: Forget me not! (Xin đừng quên anh!). Và từ đó những người yêu nhau hái những cành hoa dại tặng cho nhau và đặt tên cho loài hoa này là Forget me not.


Forget me not.jpg

Hoa Forget Me Not


Tình yêu, tình yêu sao mà dễ thương. Người ta không bao giờ hỏi lý do tại sao tôi yêu người này, yêu một cách tha thiết, yêu hơn yêu mạng sống của mình, mà không yêu người kia. Hình như trái tim của mỗi người chỉ dành riêng cho một người. Chuyện tình thời chiến tranh đẹp lắm. Có những người lính chiến đấu ở núi rừng, hái những cành hoa dại ép khô cho vào ba lô đợi khi được phép về thăm nhà tặng cho người yêu. Nhưng than ôi, có những người lính hào hùng đã hy sinh ngoài chiến địa, trong ba lô vẫn còn những cành hoa khô mà vĩnh viễn không thể tặng cho người yêu của mình. Một thời để yêu và một thời để chết hay chỉ một lần chết mà thôi.


uyên ương.jpg

Uyên ương gặp gỡ trùng phùng

Ngàn năm ấp ủ mộng chung một thuyền.


Hôm nay là ngày của tình yêu. Ít nhất trong số chúng ta có ai nghĩ lại mình có yêu thương ai thật lòng không? Mình có thể chết vì người đó không? Yêu và chết, chỉ một lần thôi.

Ngày còn nhỏ, lúc học trung học tôi rất ngưỡng mộ một ký giả chiến trường thời đệ nhị thế chiến, một ký giả dòng hoàng tộc, con vua cháu chúa đi theo đoàn quân. Khi đó, chiến tranh loạn lạc, những người dân tị nạn ẩn náu trong một nhà thờ, chàng phóng viên chiến trường dừng lại và vào nhà thờ thăm họ. Một cô gái mặt mày hốc hác, lem luốc ngồi co ro ở góc nhà thờ. Chàng ký giả thương xót và cởi áo choàng của mình khoác lên vai cô gái nhỏ. Tim chàng rung động và hẹn trở lại tìm nàng sau khi chiến tranh chấm dứt. Nhưng than ôi, khi chàng trở lại thì linh mục chánh xứ đưa chàng thăm nàng ở nghĩa trang sau nhà thờ.

Một mối tình đẹp, người sống người chết, cô gái bé nhỏ sinh trong thời chiến tranh đã đi nhưng trong trái tim của người ký giả chiến trường vẫn còn hình ảnh của người con gái đáng thương này. Câu chuyện tình yêu này được dựng thành phim và hàng triệu người trên thế giới ngưỡng mộ mối tình đẹp trong thời đệ nhị thế chiến.

Tình đẹp là tình dang dở, nhưng nếu tình đừng dang dở chắc hay hơn. Nước mắt không nên chảy, tình yêu nếu trọn vẹn vẫn hơn dang dở. Yêu thương nhau, đoàn tụ với nhau, đùm bọc lẫn nhau vẫn hơn chia lìa, người đi kẻ ở, than khóc, nước mắt, chia tay, không đẹp trong thế kỷ 21 này.


Thánh Valentino.jpg

Thánh Valentino

(Mất ngày 14 tháng 2 năm 269 AD tại nước Ý)


Ngày của tình yêu, thánh Valentine không phải chết vì tình yêu của mình mà chết vì tình yêu của người khác. Thánh chết vì cãi lệnh vua làm lễ hôn phối cho những người lính. Thế kỷ thứ 3, vua không cho lính cưới vợ, vì nếu có gia đình sức chiến đấu sẽ giảm đi, đó là truyền thuyết thứ nhất. Truyền thuyết thứ hai là thánh làm lễ rửa tội cho người tù theo đạo Công Giáo. Truyền thuyết thứ 3, người tù sắp bị tử hình để lại di chúc cho người yêu bằng chữ Valentine. Thánh Valentine là một vị linh mục thế kỷ thứ 3 sau Thiên Chúa Giáng Sinh. Linh mục Valentine tử đạo thì ngày của tình yêu ra đời. Mãi mãi trong lòng mọi người, ngày của tình yêu, ngày của yêu thương, của kẹo ngọt, của hoa tươi ngập tràn phố phường, tình yêu sao mà tuyệt vời.

Chúng ta có thể nhìn thấy những người yêu nhau tay nắm lấy bàn tay, đưa nhau vào các tiệm ăn, các tiệm hoa, các cửa hàng bán quà.


rose & chocolate.jpg

Hoa hồng và chocolate -- quà tặng được chọn nhiều nhất trong ngày Valentine.


Tình yêu sao mà tuyệt vời. Hy vọng ngày nào cũng là ngày của tình yêu. Mọi người nói năng lịch sự, lễ độ, đầy yêu thương. Mong ngày nào cũng là ngày của tình yêu, và thánh Valentine sống mãi trong lòng mọi người.

Vạn tuế tình yêu, xin tình yêu ở mãi với mọi người, người nghèo, người khốn khổ nhưng khi có tình yêu là có tất cả. Trái tim của những người có tình yêu lúc nào cũng rộng mở, giúp đỡ mọi người trong khả năng của mình, trái tim của những người có tình yêu sẽ không có hận thù, không ghen ghét, không uất ức, không thao thức để tìm cách hại người. Trái tim của người có tình yêu chân thật đời sống lúc nào cũng thoải mái, bao dung, phóng khoáng, nhìn thấy cái tốt của người khác mà không nhìn thấy cái xấu của người xung quanh. Trái tim của người có tình yêu sẽ nghe thấy những tiếng nói ngọt ngào từ trong trái tim của chính mình và của người khác. Ôi tình yêu sao mà đẹp tuyệt vời!


-- Kiều Mỹ Duyên
(Orange County, 14/02/2022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.