Hôm nay,  

Nhảy tàu

16/04/202211:54:00(Xem: 4796)

Truyện ngắn

train

 


Con tàu STN xình xịch tiến vào khu vực đề-pô Diêu Trì, nó đã giảm tốc độ trước khi ngừng lại trong vòng vài phút để báo cáo xin phép vào ga. Con tàu chậm dần thì những nhóm người trên tàu và dưới đất lại tăng tốc lên, tiếng la hét, tiếng chửi thề cùng bao nhiêu âm thanh hỗn tạp ồn ào như đàn ong vỡ tổ. Những người đi lậu vé chen lấn sát bậu cửa để chuẩn bị nhảy xuống đất, nhũng người bán hàng rong với lỉnh kỉnh tay xách nách mang cũng ào ạt tuôn khỏi con tàu. Trong khi đó thì những người vác hàng thuê ở dưới đất lại hùng hục chen lấn mang vác những bao tải hàng, sọt đựng đồ, đạp cả lên người khác để vùi hàng vào trong toa xe. Mạnh ai nấy quăng đồ, những đống đồ loạn xà ngầu tưởng chừng như không phân biệt được nhưng thật ra thì bọn vác mướn nhận biết đâu là hàng của chủ mình. Những bao hàng đều có dấu hiệu riêng của mỗi chủ hàng.

 

Thằng Luân với vẻ mặt bừng bừng đỏ vì vừa chen lấn, vừa cật lực nhồi hàng vào toa xe lửa. Nó va vào mấy người đi lậu vé, quác miệng ra chửi đổng:

 

- Đ… mẹ tụi bay, sao ngu quá vậy? Đi lậu vé thì phải biết chứ, tàu tới đề-pô thì ra gần cửa để mà nhảy xuống, lớ ngớ tàu vào ga thì tụi kiểm soát vé ở cổng nó phạt chết mẹ tụi bay!

 

Người đi lậu vé có bảo kê dẫn lên tàu, sau khi chi cho tụi soát vé trên tàu một món tiền bằng hai mươi phần trăm giá vé thôi và được xếp ngồi ở phòng của tụi soát vé. Những người lậu vé tự do thì tự lo liệu, hoặc ngồi ở hai đầu toa xe lửa, hoặc trốn trong cầu tiêu, hoặc đi qua lại giữa hai toa khi mà tụi soát vé đi kiểm tra.

 

Thằng Luân dắt mối khách lậu vé lên tàu, vừa vác hàng thuê cho các chủ buôn lậu. Hàng của Bảy Chủ rất phong phú nào là thuốc lá Jet, Captain, 555… hàng từ Thái Lan qua Sài Gòn rồi từ Sài Gòn tỏa đi khắp nơi. Có khi là hàng từ cảng Quy Nhơn lên, lại tỏa đi vô nam ra bắc. Hàng từ cảng Quy Nhơn chủ yếu là hàng điện tử được gom từ các nghĩa địa đồ điện tử ở Nhật, nào là: Tivi, đầu video, nồi cơm điện, xe đạp, tủ lạnh, máy giặt… Nhờ buôn hàng điện tử nghĩa địa mà cư dân làng chài Nhơn Lý trở nên giàu có. Những chủ hàng như Bảy Chủ cũng phất lên, cất nhà năm tấm, mua xe con, ăn chơi mát trời ông địa luôn.

 

Trong giới nhảy tàu thì tụi hàng rong là hẻo nhất, ít vốn liếng, chủ yếu bán cơm, cháo, thuốc lá lẻ, cà phê, kẹo gum, trà đá, trà nóng... Người ta nói nước có quốc pháp, nhà có gia quy. Giang hồ cũng có luật của giang hồ, hàng rong cũng có luật của hàng rong. Luật bất thành văn nhưng mọi người tự động tuân thủ, không kẻ nào dám vi phạm. Khu vực của bọn hàng rong ga Diêu Trì kéo dài từ đèo Bình Đê phía bắc vào đến đèo Cù Mông phía nam. Hễ tàu ra khỏi địa phận đó thì nhóm hàng rong Diêu Trì tự động xếp hết hàng hóa đồ đạc vào gầm ghế hoặc trong cầu tiêu, nếu kẻ nào tham dám bán ở ngoài khu vực thì bị đập không thương tiếc và cũng chẳng có ai giúp đỡ hay phân xử.

 

Những năm tháng ấy, ga Diêu Trì còn là một tụ điểm buôn dừa có tiếng trên cả nước, dừa từ Tam Quan, Bồng Sơn và các nơi trong tỉnh, dừa từ các tỉnh lân cận và cả dừa trong nam ra… tập trung hết ở ga Diêu Trì để đưa lên tàu chuyển ra bắc. Những trái dừa già đã lột vỏ, chỉ còn sọ. Mỗi bao dừa chứa cỡ ba chục hay năm chục trái. Bao dừa khá nặng, ấy vậy mà những tay vác hàng mướn vác hàng chạy băng đồng vượt cống một cách khỏe re. Khi đoàn tàu chạy chậm lại hay dừng ở đề-pô thì hàng được quăng lên tàu ầm ầm trông thật dễ sợ, cứ nghĩ bao dừa ấy mà đè phải mình thì có mà chết!

 

Con tàu chạy thât chậm, trưởng tàu phải gởi điện xin phép nhà ga trước khi vào, đó vừa là luật của ngành đường sắt lại vừa là sự điều khiển của các chủ hàng. Bọn chủ hàng góp tiền lại đưa cho các lái tàu, “mua” lái tàu, để bọn họ nấn ná thêm thời gian. Đây là khoảng thời giờ vàng bạc, hàng họ của họ kịp đưa lên hoặc xuống tàu. Tàu ở khu vực đề pô thì tương đối an toàn cho giới nhảy tàu, nhưng khi nó bắt đầu tăng tốc để vào ga hay rời ga thì lúc ấy rất nguy hiểm. Với dân đi lậu vé thì không dám nhảy lên hay nhảy xuống nữa, tuy nhiên với dân vác hàng thuê hay dân bán hàng rong thì chẳng nhằm nhò gì, bọn họ coi nhảy tàu như trò chơi, một trò chơi để kiếm cơm mưu sinh, một trò chơi mà nhiều người đã để lại một phần thân thể của mình, thậm chí có kẻ bỏ lại cả mạng sống của mình. Sau khi tàu ra khỏi lãnh địa của mình, dân hàng rong leo lên nóc tàu nằm chơi, thậm chí chạy nhảy và ngủ trên ấy. Đời sanh nghề tử nghiệp, tuy nhảy tàu đầy kinh nghiệm nhưng thằng Hoàng Lai đã vĩnh viễn nằm lại với đường sắt, thằng Bình Lác để lại một giò, thằng Tí Còi gởi lại cho tàu một cánh tay… Những cái chết hay những tai nạn thỉnh thoảng xảy ra chỉ đủ gợi lên một tí xót thương hay cảm thán nhưng rồi đâu cũng lại vào đấy, cuộc sống bức bách cơm áo gạo tiền chẳng cho phép người ta sợ lâu, thế là lại nhảy tàu.

 

Cứ mỗi chiều về, khoảng năm hay sáu giờ thì đoàn tàu từ Sài Gòn xình xịch ra tới đề-pô, thời gian này cũng là lúc ngoại dắt gã đi ngang qua khu vực đề-pô. Đề-pô xe lửa Diêu Trì có từ thời Pháp thuộc, nó là xưởng sửa chữa, bảo trì và cả đóng mới toa tàu. Giờ đề-pô xe lửa đã lùi vào dĩ vãng, tuy nhiên cái tên thì vẫn còn in đậm trên giấy tờ và trong tâm tư cư dân quanh vùng. Khu vực đề-pô hàng rong rất nhiều, những người bán hàng rong ở đây hiền và nhát hơn những người bán hàng rong trên tàu, dĩ nhiên cũng ít tiền hơn, không chụp giựt, không cà chớn như hàng rong trên tàu. Những món thường thấy nhất là: cháo, chè, bánh hỏi, bánh bèo, bánh bò, xương xáo, trái cây ướp đá... Đã đí qua khu vực đề-pô thì thế nào ngoại cũng mua đồ ăn cho gã. Ngoại biết gã thích ăn hàng, ngoại thương nên muốn ăn gì cũng mua cho. Mỗi chiều ngoại thường dắt gã về trên quê để ngủ giữ nhà. Ngoại có nhà trong thị trấn để mua bán, còn nhà trên quê là nơi thờ phượng và chôn giấu nhiều của cải, khoảng cách giữa hai ngôi nhà chừng ba cây số và phải băng qua khu vực đề-pô xe lửa này.

 

Cũng như mọi đứa trẻ trên đời, gã có nhiều kỷ niệm nhưng nhớ nhất vẫn là những buổi chiều theo ngoại đi ngang qua đề-pô xe lửa, cứ mỗi lần như thế, nhìn những con tàu xình xịch chạy từ nam ra bắc hay từ bắc vào nam mà lòng buâng khuâng chi lạ. Những con tàu như con rắn khổng lồ bằng sắt, khi thì bò rù rì, khi thì phóng ào ào, tiếng bánh xe nghiến vào đường sắt phát ra âm thanh ken két đến ghê cả người. Thỉnh thoảng con tài lại kéo còi toe toe, nó phun những làn khói đen kịt bị gió quạt bay ngược theo thân tàu. Con tàu chạy sầm sập trên đường sắt, làn sóng động truyền xuống đất, lan tỏa rộng và xuyên qua bàn chân len lỏi khắp thân thể những người đứng nhìn tàu. Âm thanh và hình dáng con tàu in đậm vào tâm hồn, cứ mỗi buổi chiều nghe tiếng còi tàu, nhìn con tàu chạy mất hút về nẻo xa mà lòng man mác một nỗi buồn vô cớ. Con tàu đi bỏ lại đường sắt nằm cô đơn dưới ráng chiều, con tàu qua rồi, tiếng còi tàu tan vào hư không, làn khói tàu cũng loãng mất bỏ lại đề-pô xe lửa vang bóng một thời ở lại giữa đồng quê.

 

-- Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 04/22)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.