Hôm nay,  

Nhà Đèn Chợ Quán

26/04/202222:42:00(Xem: 5135)

Tùy bút

 

nhaden

Bên hông Nhà Đèn Chợ Quán

(Nhìn từ phía Cầu Chữ Y)

Mặt chính nằm trên đường Hàm Tử, ngay bờ sông Sài Gòn (phía tay phải bức hình)

 

Thỉnh thoảng quay nhìn phía bên kia sông, vài đợt khói đen thoát ra từ những ống khói cao của nhà máy đèn Chợ Quán, khói càng lên lan mỏng dần, và lần lượt tan biến giữa bầu trời xanh, làm cho tôi suy nghĩ viển vông. Gia đình tôi, nói riêng, ở chung quanh đây ai cũng có ít nhiều gắn bó kỷ niệm với nhà máy đèn Chợ Quán. Lúc đó mỗi lần nghe nhà máy hú còi, mẹ tôi thường hay lẩm bẩm đã mười hai giờ trưa rồi mà chưa kịp làm cơm cho chị em tôi, mẹ tôi lăng xăng vội vã, thấy mà thương mẹ nhiều thêm. Ngày ngày nghe tiếng còi hụ như thói quen đưa vào trí nhớ mọi người, trời đã trưa rồi đó!

Càng về khuya, có những lúc học bài trễ, tôi nghe văng vẳng những tiếng phát ra từ máy phát điện phía bên kia sông. Âm thanh sao mà buồn và ray rứt, làm tôi liên tưởng có lẽ cuộc đời mình sẽ có ít nhiều gắn bó với nó…

Còn đâu kỷ niệm khung trời ấy,

Một thoáng gợi buồn, hạnh phúc xưa.

 

-- Trích tùy bút “Chợ Quán Xưa” của chị Châu Huyền (đăng trên Bản Tin Thân Hữu Điện Lực Việt Nam Hải Ngoại, số 23).

 

*


Nói đến Nhà Máy Điện Chợ Quán, gọi nôm na là Nhà Đèn Chợ Quán hay Nhà Đèn, quả thật ít ai không biết đến vì nó đã từng dự một phần quan trọng trong đời sống hằng ngày của dân Sài Gòn trong một thời gian dài.

Nhà Đèn có một lịch sử lâu đời, cả trăm năm. Nó là một trong những biểu tượng hiếm hoi của nền văn minh cơ giới xa xưa của ngành điện lực dưới thời Pháp thuộc còn sót lại đến ngày nay.

Tôi nghe nói Nhà Đèn còn là chứng nhân của một biến cố đau thương của đất nước trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến. Năm Ất Dậu (1945), vì than Hòn Gai không thể chuyên chở từ Bắc vào Nam được nên Nhà Đèn đã phải dùng thóc để đốt lò chạy máy thay than. Trong khi đó, ngoài Bắc đã xảy ra nạn đói chết cả triệu người vì không có gạo ăn do quân phiệt Nhật gây nên.

Và tôi cũng nghe nói trước đây, từ Nhà Đèn, đã từng là nơi xuất phát những cuộc đấu tranh của công nhân đứng lên chống lại sự bóc lột của những chủ nhân ông người Pháp.

Và cũng chính tại Nhà Đèn, tôi biết rất rõ vì trong thời gian tôi làm việc ở đây, người Cộng Sản muốn san bằng nó thành bình địa bằng những cuộc pháo kích, phá hoại, mà cao điểm là vào những năm cuối cùng của cuộc chiến vừa qua. Và tôi cũng đã biết, chính quyền Cộng Sản đã khai tử Nhà Đèn này để thay thế bằng những kiến trúc khác. Thế là xong, Nhà Đèn thân yêu không còn nữa! Nó đã ra đi vĩnh viễn, để lại biết bao nhiêu thương nhớ cho những người đã từng gắn bó đời mình với nó nói riêng và cho toàn thể nhân viên Công Ty Điện Lực Việt Nam cũ nói chung.

Nhà Đèn nằm ngay trung tâm của Hòn Ngọc Viễn Đông, nghĩa là giữa viên ngọc sáng chói ấy có một cục than đen xì. Địa điểm của Nhà Đèn thật dễ nhận ra. Nhà Đèn Chợ Quán là hàng xóm, là láng giềng gần của Nhà Thương Điên Chợ Quán (tên cũ). Cả hai cùng nằm trên đường Hàm Tử ngay sát bờ sông Sài Gòn. Có ai muốn hỏi thăm đường đến Nhà Đèn thì ta cứ lấy Nhà Thương Điên làm mốc. Và ngược lại, có ai muốn hỏi thăm đường đến Nhà Thương Điên thì ta cứ lấy Nhà Đèn làm mốc. Tôi nhớ lại, ngày đầu tiên đi xin việc tại Nhà Đèn, hỏi thăm đường, người ta cũng chỉ cho như thế nên nhớ mãi. Địa hình địa vật của Nhà Đèn chỉ có thế, không thể giải thích nhiều hơn hoặc khác đi được. Có khác chăng là nhà Thương Điên thì có chuyện "điên", Nhà Đèn thì có chuyện “điện”.

Thế cái Nhà Đèn là cái nhà gì? Nó có tương tự như Nhà thương Từ Dũ hay không vì cũng là "Nhà" cả mà? Nếu ai hỏi ta câu ấy thì chín phần mười có thể kết luận người đó nếu không phải ở trong nhà thương Điên thì ắt hẳn cũng phải là một người ngớ ngẩn. 

Nhà Đèn là nhà máy làm cho đèn điện cháy sáng, kể cả đèn điện ở trong nhà lẫn đèn điện ở ngoài đường. Nếu người ấy lại vẫn ngớ ngẩn hỏi thêm "Thế đèn điện là đèn gì?" thì ta cứ giải thích một cách dễ hiểu, đèn điện là loại đèn phải cần có những “nhà đèn” mới cháy sáng được. Giải thích như thế tôi cho là thật chính xác và khoa học làm sao, dành cho những người hỏi những câu ngớ ngẩn ấy!

Tôi đoán mò, Nhà Máy Điện Chợ Quán ở Sài Gòn là anh em sinh đôi hay sinh ba với Nhà Máy Điện Yên Phụ ở Hà Nội và Nhà Máy Điện Uông Bí ở Hải Phòng thì phải? Có cái hay hay là cả hai nhà máy điện kia chẳng ai gọi chúng bằng cái tên vắn tắt và thân yêu là Nhà Đèn cả, chỉ trừ Nhà Máy Điện Chợ Quán. Có lẽ cái tên Nhà Đèn chỉ phù hợp với ngôn ngữ và bản tính chân chất của người miền Nam ta chăng?

Nhà Đèn Chợ Quán mặc dù đen đủi già nua nhưng vẫn hiên ngang đứng sừng sững giữa thủ đô Sài Gòn của miền Nam ngày nào. Nó cố vươn lên trời cao những cột ống khói to tướng, đen ngòm và tỏa ra lất phất từng cụm khói trắng mờ nhạt, vướng víu trên đỉnh cao. Nếu nó tỏa ra những cụm khói đen như chị Châu Huyền miêu tả, thì chính lúc đó Nhà Đèn đang bị bệnh nặng rồi đấy, thầy thợ trong nhà máy phải “xất bất xang bang” với nó. Cứ tới 12 giờ trưa, tưởng như từ những ống khói ấy rung lên, phì ra những hồi còi dài the thé rồi đột nhiên nấc lên mấy cái trước khi tắt nghẹn như để cố níu kéo lại cái vẻ oai hùng của một thời trai tráng xa xưa. 



Suốt ngày Nhà Đèn rên rỉ với tiếng "o o" của những chiếc quạt gió đến làm tôi khó chịu lúc ban đầu. Ấy đấy, nếu bà con vùng lân cận không nghe thấy cái tiếng "o o” buồn và ray rứt (lời của chị Châu Huyền) ấy thì còn phải buồn và ray rứt hơn thế đến cả ngàn lần vì cái quạt điện trong nhà tự nhiên "trúng gió" lăn đùng ra không quay được nữa giữa mùa hè oi bức. Hoặc, đoàn cải lương Thanh Minh Thanh Nga đột nhiên ngừng trình diễn nghỉ ngơi trên màn ảnh truyền hình. Hoặc, căn nhà trở nên tối om vào lúc đang cần ánh sáng cho sinh hoạt gia đình. Thế rồi cái tiếng "o o" đó cứ quen dần đi và nó lại trở nên thân thương tưởng như không thể thiếu vắng được nữa, vì thiếu vắng nó, sẽ làm ta khó ngủ như thiếu tiếng ru êm hay như hồn thơ ta thiếu những tiếng buồn (của chị Châu Huyền).

Chính vì Nhà Đèn quan trọng như thế nên những người làm việc trong cái Nhà Đèn ấy dường như cũng phải quan trọng theo, nhất là mấy ông "xếp".

Người dân lao động ta thường gọi nôm na những ông “xếp” này là ông "Tây Nhà Đèn" dù nay là người Việt. Cũng có cái hay hay trong ngôn ngữ nước ta, hễ thấy cái gì là lạ, hoặc cái gì sang sang, hoặc lơn lớn hơn cái bình thường sẵn có, hoặc cái gì có vẻ bất bình thường thì thường được gắn ngay vào đó một chữ "Tây". Thí dụ như quả táo to thì gọi là táo Tây, con gà xấu xí to lớn mà người Mỹ gọi là con turkey thì liền gọi nó là con gà Tây, rồi nào là củ hành Tây, bánh Tây (bánh mì), nhà Tây, cơm Tây, vân vân và vân vân. Có lẽ những ông Tây Nhà Đèn ngoài cái quan trọng vì làm việc trong Nhà Đèn, các ông ấy lại có những cái gì trông là lạ khác thường chăng? Như khi tôi mới vào làm việc tại Nhà Đèn tôi thấy các ông "xếp" luôn luôn mặc áo sơ mi cộc tay trắng toát, quần “soọc” cũng trắng tinh. Có ông trong tay còn cầm cây "can" đen bóng lưỡng giống như cây "dùi cui" của "mã tà" (police) đi đi lại lại. Các ông Tây Nhà Đèn cứ trắng ngồn ngộn nổi bật lên giữa mọi thứ chung quanh đen ngòm, bụi bặm, dơ dáy khiến tôi lấy làm lạ. Các ông lại hiền như cục bột (tất nhiên phải là cục bột trắng rồi) và cái "can" kia chỉ được dùng để ra oai gõ vào đầu những cái đồng hồ áp suất hay nhiệt độ mỗi khi chiếc kim lười biếng không chịu chỉ cho đúng số mà chỉ muốn lui về số zéro ngơi nghỉ. Hay nhiều lắm, các ông chỉ kéo lê chiếc "can" trên chấn song cửa sổ để tạo nên tiếng khua hầu đánh thức bác công nhân già gác máy đương thiu thiu ngủ gật.

Được mặc những bộ quần áo trắng đó là mơ ước của tôi lúc ấy. Nhưng cũng rủi thay cho tôi, ước mơ ấy chẳng bao giờ trở thành sự thật vì sau đó bộ quần áo trắng được thay thế bằng bộ đồng phục với chiếc áo cộc tay mầu xám nhạt và chiếc quần dài kaki mầu xám đậm cho hợp với "thời cuộc".

Những năm tháng tôi làm việc tại Nhà Đèn thì vui có, buồn có, bận đến mờ người có, thảnh thơi có, lo âu có và đú đởn cũng có luôn. Cuộc sống cứ đều đều trôi đi theo tiếng "o o" của những chiếc quạt lò.

Trưởng “Hệ Thống Phát Điện Chợ Quán” (tên mới của Nhà Đèn) tức Giám Đốc Nhà Đèn cuối cùng là ông Bùi Văn Nghiêm (hiện cư ngụ tại Lyon, Pháp). Đấy là tôi kể đến cái mốc thời gian trước năm 1975. Tất nhiên ông Nghiêm là cấp chỉ huy trực tiếp cuối cùng của tôi trong Công Ty Điện Lực Việt Nam.

Ông Nghiêm đối với tôi là chỗ thân tình vì tôi làm việc với ông lâu nhất. Tôi đối với ông Nghiêm vừa là tình đồng nghiệp vừa là tình thân như anh em và tôi coi ông như một người thầy. Tính ông trầm tĩnh, giỏi về kỹ thuật, biết dùng và tin người trong quản trị. Tất cả mọi người làm việc dưới quyền đều kính trọng ông, trọng về tài kính về đức độ.

Tôi còn nhớ một điều, khi Cộng sản vừa vào tiếp thu Nhà Đèn Chợ Quán, họ đem ông Nghiêm và tôi ra cho công nhân gợi ý về những sai lầm của chúng tôi trong quá khứ. Thật sự đây là một hình thức đấu tố nhằm khích động và gây căm thù của công nhân đối với các cấp chỉ huy cũ. Nham hiểm thế đấy! Hôm đó toàn thể công nhân nói toàn những điều tốt đẹp cho chúng tôi, đã làm cho Ban Quân Quản phải thốt lên câu "Hai anh được công nhân yêu quý thật!" Điều này xảy ra thêm một lần nữa cho riêng tôi, lời nhận xét trên đã được lặp lại và được ghi trong một văn bản mà hiện nay tôi vẫn còn lưu giữ.  

Trong mười năm làm việc tại Nhà Đèn, tôi còn có biết bao điều phải nói, phải kể, phải viết ra; biết bao nhiêu ân tình, kỷ niệm thân thương của những cấp chỉ huy, của bạn đồng nghiệp và của các bác các anh em công nhân đã dành cho tôi trong những năm tháng ấy; biết bao nhiêu đồng lao cộng khổ, ngọt bùi; và cũng biết bao nhiêu tủi nhục dưới thời Cộng Sản đã được chia sẻ cùng nhau.

Ôi! Nhà Đèn đối với tôi là thế đấy.

Nhà Đèn đã ra đi vĩnh viễn nhưng những người gắn bó với Nhà Đèn còn đó. Tôi xin trân trọng gửi đến những người còn lại lời tri ân vì tất cả đã để lại trong lòng tôi một tình cảm sâu sắc vô bờ.

Cám ơn Nhà Đèn, cám ơn tất cả!

Nếu có dịp, tôi xin được viết tiếp về những sinh hoạt của Nhà Đèn Chợ Quán cùng những kỷ niệm với các bạn đồng nghiệp, các bác công nhân thân thương mà trong giới hạn bài này tôi không thể nêu ra hết được.

Mượn câu thơ của chị Châu Huyền để tạm chấm dứt bài viết này.

Còn đâu kỷ niệm khung trời ấy,

Một thoáng gợi buồn, hạnh phúc xưa ...

 

Nguyễn Giụ Hùng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.