Hôm nay,  

Giọng Huế của Mạ

07/05/202220:29:00(Xem: 3591)

Tạp bút Ngày Của Mẹ

hoanquan
Thư pháp của thi sĩ Trụ Vũ.

 

Chưa đến ba mươi tuổi, một nách hai đứa con thơ, theo Ba, Mạ phải xa Huế. Từ đó, hơn nửa thế kỷ qua cho đến khi lìa đời, Mạ xuôi Nam, rồi sang Đức. Suốt mấy chục năm, Mạ chỉ còn những lần về Huế đôi ba ngày ngắn ngủi thăm gia đình, chứ Mạ không còn được sống ở Huế nữa. Bầy con Mạ sanh ở Quảng Ngãi, có lẽ đã ngấm giọng ru ngọt ngào của Mạ từ thuở chưa lọt lòng… à ơi, chiều chiều ông Ngự đi câu, cái ve cái chén cái bầu sau lưng... Bởi vậy, đứa nào giọng nói cũng đầy đủ sáu vài, mười hai nhịp.

 

Ở Quảng Ngãi, ở Sài Gòn, đi đâu chăng nữa, lời ăn tiếng nói của Mạ luôn xếp đặt mọi việc ổn thỏa ba bên, bốn bề. Mạ vào Sài Gòn đặt sách báo cho tiệm sách. Mạ đi mua trang thiết bị cho quán cà phê. Mạ đến những công sở ở Quảng Ngãi để tham dự đấu thầu cung cấp bút chỉ văn phòng. Mùa hè đỏ lửa, Ba không thể rời nhiệm sở ở miền Trung, Mạ dẫn bầy con nhỏ vào Sài Gòn chạy loạn. Thời gian này, một cảnh hai quê, lòng Mạ lo lắng ngổn ngang trăm mối. Tuy vậy, Mạ vẫn sắp xếp dắt bầy con nhỏ đi đó đây khắp Sài Gòn. Mạ muốn đưa mấy đứa con đi Chợ Lớn. Mạ hỏi đường, người Sài Gòn ngẩn người, không biết “Chợ Lợn” ở đâu. Nhưng rồi, Mạ vẫn tìm đến được những địa điểm như ý muốn. Người bạn của Mạ ở gần chợ Cầu Muối. Bác diễn tả, nhà bác có lát gạch bông đàng trước. Bình thường, với thông tin như vậy, có lẽ ai cũng phải lắc đầu, từ bỏ ý định tìm kiếm. Mạ lặn lội hỏi quanh và cuối cùng Mạ cũng đến thăm được người bạn.

 

Mạ giải quyết êm đẹp những “bất đồng ý kiến” giữa khách của quán cà phê nhà và các cô hàng cà phê. Một người khách quen kể: “Thiệt kỳ lạ, mỗi lần anh hồi tưởng về quê nhà Quảng Ngãi, là anh nhớ tới Mạ các em. Một người phụ nữ Huế, có khuôn mặt đẹp, cương nghị, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh, cư xử dịu dàng, nói năng nhỏ nhẹ. Các cô trong nhà chỉ cần học Mạ các em là đủ, không cần học thêm bất cứ ai”.

 

Người giúp việc trong nhà không hề chịu cảnh chủ tớ, mặc dầu có những người quen gọi Ba Mạ là ông chủ, bà chủ. Nhiều người, đã nghỉ việc, nhưng khi có dịp vẫn ghé qua nhà, thăm hỏi gia đình.

 

Sau cuộc đổi đời 1975, vai Mạ oằn xuống vì những gánh nặng khổ ải dồn dập. Khi công an, bộ đội súng ống hung dữ ập vào tịch thu nhà, Mệ nội quá hoảng sợ, tức giận, Mệ khóc lóc không chịu đi. Những khuôn mặt sắt máu lớn tiếng nạt nộ. Bầy con ngơ ngác, bàng hoàng. Mạ nhẹ nhàng trấn an cả nhà. Mạ tiếp tục cưu mang, gánh vác gia đình, sau khi cả nhà phải rời khỏi ngôi nhà Ba Mạ đã gầy dựng biết bao năm. Mất tiệm sách, mất quán cà phê, mất nhà, Mạ tảo tần với hàng cơm ở bến xe Quảng Ngãi, khách hàng đa số là người dân lao động. Trong những lần đi thăm Ba, Mạ luôn an ủi, khuyên nhủ, để Ba khỏi suy sụp tinh thần, để còn có ngày về đoàn tụ với gia đình. Mạ đau đứt ruột, tiễn các con rời Việt Nam, mà thuở ấy, khó mong có ngày trở về, với hy vọng các con có cuộc đời đáng sống. Ba về nhà sau gần mười năm tù với nhiều chứng bệnh mang trong người. Sau lần bị đột quỵ, Ba đã bị liệt nửa người. Mạ ghé vai Ba cho Ba vịn đứng dậy. Mạ rốt ráo hỏi tìm khắp nơi cách chữa trị, thuốc ta, thuốc tây. Mạ vái tứ phương. Tình thương yêu của Mạ như phép màu giúp Ba bình phục và vượt qua những cơn bệnh thập tử nhất sinh.

 

Mạ và một cô giáo của con, đã có những lần cùng nhau đi thăm chồng ở trại cải tạo. Mấy chục năm sau, gặp lại cô, cô hồi tưởng: “Dáng Mạ gầy gầy, vẻ nhẫn nhục chịu đựng gian khổ lo cho chồng, cho con. Nhưng vẫn toát lên vẻ quý phái, cao sang. Dạo ấy, là người Huế, sống giữa đất Quảng, lại xa chồng, cô càng thấy mình bơ vơ, lạc lõng. Mỗi khi cô đến với Mạ con, cô có cảm tưởng như mình đang ở Huế, gần gũi với gia đình.”

 

Lúc khá giả cũng như khi cơ cực, Mạ đối xử với mọi người như bát nước đầy. Thời nhà sách, Mạ thân thiết với những gia đình trên đường Phan Bội Châu. Sau khi Ba đi cải tạo, nhà bị tịch thu, bác Kh., một người chưa quen biết, đã mở lời giúp đỡ Mạ trong lúc ngặt nghèo, mặc dầu gia đình bác cũng chỉ sống đắp đổi qua ngày. Mạ về cùng bác Kh. bán hàng cơm ở bến xe lam cạnh cây xăng. Ban đầu, có người hàng xóm do đố kỵ, tỏ vẻ hằn học, hiềm khích. Thế mà, sau một thời gian, Mạ đã lay chuyển được thái độ của người ấy. Rồi Mạ có thêm nhiều người láng giềng gần gũi, tối lửa tắt đèn có nhau. Những năm cuối thập niên 70 cho đến ngày các con rời Việt Nam, nhà ở Phú Nhuận, các con nhiều lần khốn đốn với phường khóm địa phương. Vậy mà, khi Mạ ở đây và lúc Ba về nhà sau khi ra khỏi trại cải tạo, những tổ trưởng, tổ phó khắt khe, xét nét đã trở thành những người quen thoải mái, vui vẻ với Ba Mạ.

 

Ngày đón Ba Mạ ở phi trường Frankfurt, bầy con xúc động nước mắt lưng tròng. Gia đình sum họp sau nhiều năm xa cách. Mạ vui mừng khôn xiết. Nhưng Mạ lo Ba vừa qua cơn trọng bệnh, khéo léo nói nhỏ vào tai bầy con: “Mấy đứa đừng khóc, sợ Ba xúc động mạnh, không tốt”.

 

Mạ dặn dò, con gái đừng cằn nhằn với chồng, con trai đừng gắt gỏng với vợ. Khi thấy con phải đối mặt với nguy cơ rạn vỡ trong gia đình nhỏ, Mạ ân cần khuyên nhủ, “Con nì, quyết định chi, con nhớ nghĩ đến con của con nghe”. Mạ thấy đứa con này cuối tuần ở nhà, Mạ nhỏ nhẹ: “Sao con không đi thăm bồ!” Mạ thấy đứa con kia hơi tròn trịa, Mạ nghiêm giọng: “Ăn uống kỹ kỹ lại nghe con.”

 

Như vậy đó, giọng Huế của Mạ đã ru, đã nuôi, đã dưỡng bầy con từ thuở còn thơ cho đến khi con đầu có hai thứ tóc. Giọng Huế của Mạ tận tụy chăm sóc Ba trong những thăng trầm của cuộc đời. Giọng Huế của Mạ đã bươn chải ở nhiều nơi, để chồng con đầy đủ miếng ăn, cái mặc. Giọng Huế của Mạ đã chạm vào trái tim của người chưa quen biết để họ trở thành ân nhân của gia đình. Giọng Huế của Mạ đã là bản đồ tìm đường, kiếm lối. Giọng Huế của Mạ đã mang đến những bạn bè, những láng giềng tử tế. Giọng Huế của Mạ đã an ủi chia sẻ với những người cùng cảnh ngộ.

 

Những cái tết Mạ còn trên đời, đêm ba mươi bên mâm cúng tất niên, Mạ lâm râm cầu nguyện cho toàn thể gia đình an lành, mạnh khỏe. Mạ vẫn giữ thông lệ lì xì con cháu cho đến cái tết cuối cùng, năm Mạ vĩnh viễn lìa xa trần thế. Con, cháu, dâu, rể xếp hàng khoanh tay chờ Mạ mừng tuổi. Mạ ngọt ngào gọi tên từng đứa con, cháu, nhỏ trước lớn sau và đặt vào tay con, tay cháu phúc lộc đầu năm. 

 

Giờ đây, tụi con không còn được nhận được bao lì xì mừng tuổi của Ba Mạ nữa. Nhưng trong tim tụi con vẫn nghe được giọng Huế của Mạ, phù hộ cho con cháu luôn được an lành, trên thuận dưới hòa, gia đình yêu thương đùm bọc nhau, vạn sự hanh thông như ý trong cuộc sống.

 

-- Hoàng Quân

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.