Hôm nay,  

Những con hẻm thương yêu

15/05/202221:05:00(Xem: 3126)

alley

Những con hẻm thuở ấu thơ

Cho tôi đến những bến bờ yêu thương

Giờ đây lạc bước tha hương

Trong cơn mộng mị gọi buồn mênh mang

(KL)


Cứ mỗi khi nhìn trời mưa bên đây, tôi lại nhớ về mưa quê nhà, mưa trong ngõ hẻm nhà mình. Thuở còn là học sinh mới lớn, mùa hè thường không phải học hành, khi trời chuyển màu u ám rồi những hạt mưa rủ nhau rơi xuống, tôi hay ngồi ngay cửa sổ bàn học, nhìn ra ngoài mảnh sân nhỏ trước nhà, nơi góc trái là cây bông giấy đỏ. Những cảnh hoa mong manh bị nước mưa làm ướt đến tội nghiệp, tôi chống tay lên cằm nhìn mưa rơi với những suy nghĩ vẩn vơ! Ừ, mưa trong hẻm nhỏ, có ai nói như thế bao giờ chưa nhỉ, nhưng con hẻm này là nơi tôi sinh ra, lớn lên và có biết bao nhiêu tháng ngày hoa mộng suốt bốn mùa…


Hẻm nhà tôi không lớn mà cũng không nhỏ, được tráng xi măng sạch sẽ, cũng không phải con hẻm ngoằn ngèo “không có lối ra” như những con hẻm khác. Nhà tôi ngay giữa hẻm, nơi đầu hẻm là con đường cái dẫn lên chợ Thông Tây Hội, từ đó đi thẳng lên Ngã Tư Xóm Mới. Phía đầu hẻm còn lại dẫn ra một cái chợ nhỏ, nối liền một xóm khác, và cũng dẫn ra đường cái. Tuổi thơ của tôi trong con hẻm này là một thiên đường không tỳ vết, mặc kệ những bon chen nơi phố xá và cuộc sống bên ngoài. Những buổi trưa hè êm ả, trốn giấc ngủ trưa, tôi và lũ bạn chạy đến khu nhà trống cuối hẻm, chủ nhân bỏ đi vượt biên bị nhà nước tịch thu, chỉ còn lại bốn bức tường loang và đống gạch vụn vương vãi khắp sân, nhưng cây khế ngọt bao trùm cả sân nhà là nơi cho lũ trẻ đến chơi bày hàng, chơi ô quan, nhảy dây. Khi có cơn gió thổi qua, mấy đứa lại tranh nhau nhặt khế rụng và tưởng tượng chuyện cổ tích ăn khế trả vàng, mang túi ba gang đi mà đựng. Kế bên căn nhà trống, có một mô đất, bọn trẻ đặt tên là “đồi”, rủ nhau lên đồi “hóng gió”, rồi lại kéo xuống rãnh nước bên cạnh được gọi là “suối” để vớt lăng quăng về nuôi cá, cứ thế mà cuộc vui trẻ thơ không bao giờ tàn, cho đến xế chiều, không ai bảo ai cả đám rủ nhau ra về vì sợ cây khế có …ma, nhưng chắc chắn một điều là ngày mai sẽ trở lại tiếp tục cuộc vui.


Lên cấp hai rồi cấp ba, tôi không nhớ hết bao nhiêu con hẻm mình đã đi qua. Có khi đi bộ đến nhà bạn bè chơi, học nhóm, cũng có khi chạy xe đạp tìm nhà mệt muốn đứt hơi và vui sướng khi có người trong hẻm tìm giúp nhà (Có ai đã từng đi tìm nhà trong hẻm mà không phải hỏi người xung quanh chưa?). Vì là trong ban tổ chức lớp, hầu như tôi đã đến tất cả nhà các bạn trong lớp, ngoài mặt tiền cũng có, nhưng trong hẻm nhiều hơn, có khi đi suốt từ trưa cho đến tối mịt, đến nhà từng đứa để thu tiền hoặc xin phép cha mẹ các bạn cho những chuyến dã ngoại, picnic…Mỗi con hẻm đều có những nét riêng của nó, hẻm dài hẻm ngắn, hẻm rộng hẻm nhỏ, hẻm quanh co, hẻm thẳng tắp, hẻm giàu hẻm nghèo, hẻm ồn ào hẻm vắng lặng, nhưng tất cả vẫn mang đầy sức sống mãnh liệt của những con người sống trong hẻm, với tình làng nghĩa xóm đậm đà, tối lửa tắt đèn có nhau.


Khi ra trường làm cô giáo, tôi lại có dịp biết đến nhiều con hẻm khác: hẻm “học trò”. Trường của tôi nằm ngay khu lao động nghèo, gần Ngã Năm Nguyễn Oanh, hướng lên chợ Gò Vấp. Học sinh có rất nhiều em nghèo. Hằng năm trong giáo án chủ nhiệm phải hoàn thành việc thăm viếng nhà học sinh, nhất là những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, cần sự giúp đỡ của nhà trường. Lần đó trong lớp tôi có cậu học trò học rất giỏi, nhưng hoàn cảnh vô cùng khó khăn sau khi trở về từ vùng kinh tế mới. Đứa học trò này vừa đi học buổi sáng, chiều phải đi bán báo và đậu phộng rang giúp mẹ nuôi bốn đứa em nhỏ. 


Tìm theo địa chỉ trong sổ liên lạc, tôi dừng xe đạp ngoài đầu ngõ hỏi thăm, mấy đứa học sinh lớp khác cũng ở khu này nhận ra tôi, tình nguyện dẫn tôi đi đến đúng nhà. Trời đất, chưa bao giờ tôi đi qua một con hẻm dài đến như thế, cứ đi hết vòng này đến khúc cua kia, những căn nhà trong hẻm đã lên đèn cho bữa cơm chiều, những ánh mắt tò mò của lũ trẻ con nhìn tôi mỉm cười thân mến, những người lớn trong hẻm nhìn tôi đầy ái ngại cho cô giáo trẻ lạc loài nơi xóm nghèo. Cuối cùng thì sự kiên nhẫn của tôi cũng kết thúc khi “căn nhà” của đứa học trò hiện ra nơi một nghĩa địa nhỏ bỏ hoang, nơi tận cùng của ngõ hẻm mà chắc chắn tôi sẽ không biết đường quay trở ra. Đó là lần đầu tiên một con hẻm mang đến cho tôi cảm giác buồn bã, ưu tư suốt mấy ngày, cho đến khi tôi bắt đứa học trò hàng ngày phải mang báo và đậu phộng ế đến trường, tôi sẽ giúp bán lại cho các thầy cô trong trường, mà nếu còn dư nữa, tôi sẽ mang về nhà bán cho mấy người hàng xóm…dễ tính!


Biết bao nhiêu con hẻm đã in dấu những bước chân của tôi. Bao nhiêu năm đã trôi qua, những con hẻm đôi khi bất chợt trở về trong ký ức không theo một trình tự nào. Khi ra nhà hàng ăn món bột chiên, tôi lại nhớ con hẻm Chu Mạnh Trinh gần Phú Nhuận, nơi nhà cô bạn đồng nghiệp thân thiết. Tối mùa đông se lạnh, cô bạn dẫn tôi ra đầu hẻm có xe bán bột chiên của bố con chú ba tàu. Hẻm thoáng rộng, sạch sẽ, cô bạn chỉ cho tôi ngôi nhà ngày xưa của gia đình Phạm Duy, rồi hai đứa nghêu ngao hát, “con đường tình ta đi với bàn chân nhỏ bé”, trong lúc chờ đợi được thưởng thức dĩa bột chiên nóng sốt đầy quyến rũ, với tương ớt bỏng môi hấp dẫn tuyệt vời!


Hồi học cấp ba, con nhỏ bạn thân có lúc tương tư, đã rủ tôi đi xem bói. Thú thật, tôi chẳng tin chuyện bói toán chút nào, nhưng thấy nhỏ bạn sầu khổ vì đang yêu, tôi cũng đồng ý đi theo nó. Nhà ông thầy bói nằm trong một con hẻm sâu, sau khi đi vào hẻm lớn mang tên “Vạn Kiếp” gần chợ Bà Chiểu. Tôi không hiểu nhỏ bạn mình tìm đâu ra cái địa chỉ của ông thầy bói này, đi vào hẻm lớn đạp xe mỏi cả chân, lại rẽ vào một hẻm nhỏ khác, vòng vo hỏi han một hồi cũng tìm được đúng địa chỉ. Nhìn căn nhà nhỏ xíu đóng kín cửa đầy u ám, tôi phải đi vào chung cho nhỏ bạn đỡ sợ. Khi xong việc, hai đứa vừa lò dò dắt xe đạp ra cửa thì gặp ngay cô Hiệu Trưởng đang ngồi hóng mát ở nhà đối diện (té ra nhà cô ở đây!). Báo hại cho cả hai đứa, ngày hôm sau bị Ban Giám Hiệu kêu lên văn phòng làm bản kiểm điểm vì không lo học, mà đi mê tín dị đoan. Đó là con hẻm cho tôi “kỷ niệm đau thương” mà sau này mỗi khi đi ngang qua đều làm cho tôi mỉm cười nhớ lại lần “lỡ dại” đó!


Nhưng con hẻm yêu thương nhất, gắn bó nhất và mang biết bao nhiêu kỷ niệm đẹp của thời con gái, là chính con hẻm nhà tôi.  Một buổi tối, trời bất chợt đổ cơn mưa giông, rất nhanh, rất lớn, nhưng chỉ hai mươi phút sau thì cơn mưa dịu lại, rồi ngừng hẳn. Tôi nghe tiếng rao quen thuộc “bánh mì nóng đây” liền chạy ra cổng đón mua. Trời mờ tối, con hẻm lấp loáng nước mưa còn đọng trên vỉa hè, hắt lên thứ ánh sáng yếu ớt từ những ngọn đèn trong xóm. Tôi ngồi xuống theo rổ bánh mì nóng được chị bán hàng vừa đặt xuống thềm, chợt nhìn lên theo phản xạ tự nhiên, tôi rất đỗi ngạc nhiên thấy một người quen đang đứng bên chiếc xe đạp trú mưa bên hiên nhà đối diện. Tôi hỏi: 


“Anh đến từ bao giờ, sao lại đứng đây?” 


Người ấy ngại ngùng, phân bua: 


“Anh mới tới đầu hẻm thì trời chợt đổ mưa, nên chỉ kịp chạy vào đây, không dám kêu cửa nhà em vì mưa lớn quá”


Tôi kêu lên:


“Trời, vậy anh đứng đây cả nửa tiếng rồi sao? Mình vào nhà đi, người anh lạnh hết rồi đấy!”

Rồi từ ngày đó, con hẻm đã đón những bước chân của người ấy, dù nắng hay mưa, dù mùa hạ hay mùa đông, dù sáng hay tối, con hẻm cũng trở nên dịu dàng, ấm cúng, tràn đầy yêu thương nhớ nhung khi đợi chờ bóng dáng quen …


Bao nhiêu năm qua rồi, tôi đã vài lần đi tìm những con hẻm ở xứ Canada này nhưng hầu như không có. Lối xây cất bên đây không có những ngõ hẻm quanh co cho người ta đi tìm nhau. Có lần qua Texas thăm chị ruột, hai chị em cũng đi vào những khu lao động nghèo của dân Mễ nhưng tuyệt nhiên vẫn chẳng thấy được một con hẻm nào, dù ngắn hay dài. 


Tôi lại thấy tiếc nhớ bâng khuâng những con hẻm quê nhà, đã từng là một phần đời sống của tôi, gắn bó khắng khít như hơi thở, bồi đắp tâm hồn tôi với những tháng năm dài chất chứa bao nhiêu kỷ niệm. 


Để rồi bây giờ, mỗi khi có cơn mưa bất ngờ chợt đến, tôi lại nghe như có tiếng rao “bánh mì nóng đây”, tôi sẽ lại bồi hồi muốn được chạy ra mở cổng, chờ đợi ai đó đang vụng về đứng trú mưa dưới hiên nhà ai, của một năm nào đó, đã thật xa rồi!


Kim Loan




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.