Hôm nay,  

90 nhịp đập cho đến Auber

31/05/202223:08:00(Xem: 2712)

Truyện ngắn


metro

Tôi nhớ là những rung chuyển của đoàn xe điện ngầm mới làm cho cái cổ áo sơ mi hồ bột của tôi cọ xát nhẹ vào cổ. Cái cổ áo thì cứng đơ, y hệt tôi vậy. Bị kẹt cứng trong bộ quần áo mới nguyên, tôi cảm thấy thật khổ sở, tuyệt vọng vì đổ mồ hôi nhiều như thế. Tôi liên tục quay đầu qua lại để cho da có thể được giải tỏa phần nào sự cọ xát bực bội với làn vải. Đoàn xe lướt hết tốc lực đến nơi hẹn đầu tiên của tôi, và buổi hẹn đó đã mở đầu cho chức nghiệp bốn mươi năm của tôi. Bốn mươi năm chỉ ở một công ty. Bốn mươi năm, hằng ngày theo tuyến đường này để đến nơi làm việc. Hôm đó, tôi bắt đầu sự nghiệp ở RATP* của tôi, cũng giống như những toa tàu điện ngầm đã rất nôn nao mang tôi vào trung tâm của thành phố Paris.

 

Tôi nhớ lại vào trạm dừng thứ nhất, cái thắng mới toanh và đẫm dầu nhớt của đoàn tàu đã đưa tôi ngả lưng vào ghế nệm da giả thật êm dịu như thế nào. Dần dần tôi cảm thấy thật thoải mái, và lấy khăn tay ra để chấm những giọt mồ hôi đang khô dần trên gáy mình. Theo dòng cuộc hành trình đầu tiên này, vào bước đầu của cuộc sống trưởng thành của tôi, tôi cảm thấy tâm hồn tràn ngập niềm hứng khởi, rằng tôi sẽ chóng được tham gia vào sự biến đổi tuy chậm nhưng khẩn thiết của một thành phố đã được nghìn năm.

 

Hôm nay, giờ đây tôi cũng đang đứng trong đoàn tàu ấy, vào một ngày mây xám giăng nhẹ trên bầu trời, thật xa với sự bồn chồn của cái ngày đầu tiên ấy. Ngày về hưu đã dành cho tôi hàng loạt những nụ cười trẻ thơ của bé để đến viện bảo tàng hôm nay. Thằng bé đang đứng bên cạnh tôi đây, cái cổ rụt vào chiếc áo khoác quá dày, nhưng trời rất lạnh bên ngoài, mẹ nó bảo tôi vậy. Thằng bé quay cái đầu để thoát khỏi chiếc khăn quàng có những sợi len tua ra làm nhột cổ. Tôi mỉm cười.

 

– Mình bỏ khăn quàng ra cháu nhé, nếu không thì cháu sẽ ướt đẫm mồ hôi trước khi ta đến trạm dừng sau, cháu ạ, nghe lời ông đi.

 

– Nhưng mà Ông ơi, Mẹ dặn cháu không được cởi ra vì cháu đang bị bịnh mà.

 

– Ta sẽ quàng khăn lại khi ra ngoài nhé cháu. Khi mồ hôi nhỏ giọt trên cổ như thế thì vi trùng sẽ không tha cháu đâu.

 

«Châtelet-Les Halles ». Tên trạm dừng và những giọt mồ hôi ấy bỗng lại đẩy tôi về bốn mươi năm trước.

 

«Châtelet-Les Halles ». Đến trạm dừng sau, tim tôi đã ngừng đập. Đến trạm dừng sau, tim tôi trở nên háo hức. Đến trạm dừng sau, trái tim tôi bắt đầu yêu không hề ngơi nghỉ.

 

Nàng đã bước lên tàu ở trạm này. Nàng đứng đó, đôi tay đeo găng đang bám vào thanh sắt. Chiếc áo khoác trắng có đốm đen, đầu tóc búi thật cao tạo cho nàng một vẻ rất cao sang quyền quý. Ngẩng đầu lên, nàng nhẹ lướt nhìn một cách duyên dáng mọi người trong toa tàu, đôi mắt ngừng một lúc ở mỗi hành khách để đoán tính cách của họ. Ánh mắt của nàng chắc dành cho tôi một phần nghìn của giây, có lẽ đủ để chú ý đến một tên nhãi con mặc áo cổ hồ, hắn ta cũng lại vừa toát mồ hôi ngay lúc nàng leo lên tàu.

 

Phải nhiều tháng sau đó tôi mới dám dự định ngỏ lời với nàng, mỗi lần dự tính lại cảm thấy nhút nhát vì sự xuất hiện kiêu kỳ của nàng, với cách ăn mặc không chê vào đâu được, với những kiểu tóc luôn thay đổi, và nhất là vì cái nhìn bao phủ vào mọi hành khách, chăm chú một cách hiếu kỳ nhưng kín đáo. Trong khi công việc của tôi ngày càng phấn khởi hơn lên, cuộc sống thanh niên chững chạc và tích cực của tôi ngày càng vững chãi hơn với niềm tự tin của mình, mỗi sáng tôi đều chờ đợi nàng đến, vẻ oai phong, rồi cái nhìn của nàng tưởng như làm rạng rỡ cả toa tàu. Biết bao lần, tôi có cảm tưởng rằng một góc đôi môi mỏng của nàng mỉm cười khi thấy sự xuất mồ hôi rất nhiều của tôi, và nàng đã hiểu lý do.

 

Ngày nào nàng cũng xuống ở trạm kế tiếp, Auber. Chỉ có duy nhất một trạm ít ỏi để bạo gan dám nói chuyện với nàng, cố gắng làm cho nàng quan tâm đến tôi, việc tôi vẫn ướt đẫm mồ hôi, đến cá tính dịu dàng và tâm hồn sắc bén của tôi. Vì chỉ đi có một trạm, nên nàng không bao giờ ngồi xuống. Muốn nói chuyện với nàng, tôi phải đứng và làm sao để nàng vào đúng toa có tôi trong đó. Những hành khách thường xuyên chắc chắn đã nhận ra thủ đoạn mà tôi luôn áp dụng: trước trạm Châtelet, tôi không ngồi nữa, mà đến đứng ngay trước cửa lên xuống, bàn tay nắm chặt vào thanh sắt khi toa tàu ngừng lại, gương mặt cố nén xúc cảm ngay lúc nàng vừa bước vào đúng toa tàu của tôi, và đến ngay trước mặt tôi. Trong suốt chặng đường ngắn ngủi ấy, thời gian trôi qua nhanh cho đến trạm sau, và tôi cố gắng để tìm một phương cách bắt chuyện với nàng. Trong nhiều tuần lễ, những lời tôi đã chuẩn bị sẵn lại đi trốn vào phút cuối trong cổ áo sơ mi cứng ngắt của tôi. 

 

Tôi đứng đó, sững sờ, đôi môi ướt nhưng bất động. Mười phút ngắn ngủi đó trôi qua thành từng giọt, từng giọt mặn chát dọc theo sống lưng tôi. Và rồi tôi nhìn thấy nàng bước xuống ở trạm dừng kế tiếp, chỉ để lại cho tôi một làn hơi nhẹ thoảng tỏa hương thơm để oán than, và tôi hít mạnh làn hơi ấy trước khi ngồi xuống lại và đi hết đoạn đường trên chuyến tàu, tê tái cõi lòng.

 

Cuối cùng nàng cũng nhận ra màn kịch ẩm ướt, sự tê cứng thảm hại, tình yêu khập khiễng của tôi. Rồi nàng lấy đó làm vui thích, nghịch phá bằng một tia nhìn chậm chạp hơn, lém lỉnh hơn, sáng rực hơn. Một hôm, trong khi chót lưỡi tôi đang tìm đường để chạm môi mình một cách khổ sở, nàng bỗng quay nhẹ sang phía tôi, ý thức được rằng bất kỳ lời nói mạnh bạo nào cũng sẽ gây ra một trận đổ mồ hôi không thể kềm chế được, và rồi, làm như thể nàng và tôi đã quen biết nhau trước, nàng nói một cách bình thản: "Anh có ngửi thấy mùi bánh mì thơm phức mới lạ ở Auber không? Có lò bánh mì dưới hầm mới khai trương đó". Tất cả sự tế nhị của nàng đã cô đọng trong câu ấy để đề nghị cuộc hẹn đi giải khát ở trạm dừng sau. Và nàng cũng đã cố ý nói điều ấy ra 47 giây trước khi tàu đến trạm dừng kế tiếp.

 

"Auber".

 

Tôi có được 45 giây để mở miệng lắp bắp một câu trả lời bạo gan, đề nghị nàng ăn cùng tôi cái bánh mì nhỏ ngay bây giờ. Tôi nhớ rất rõ 90 nhịp đập con tim đã đi theo tôi cho đến trạm kế tiếp.

 

– Ông ơi?  

 

– Ông à?

 

"Auber"

– Ông đang nghĩ gì vậy?

 

– Đến bà...  

 

– Ông nhớ bà hả ông?

 

Cánh cửa toa tàu mở toang, và mùi thơm của các loại bánh ngọt tràn vào.

 

– Đúng rồi cháu.

 

Tàu điện đã lăn bánh trở lại, và lướt trên đường sắt, nặng nề như bao kỷ niệm của những mảnh đời hoan hỉ được mang đi.

 

– Cháu ơi, quấn khăn quàng vào đi, ta sẽ xuống vào chặng kế tiếp đó.

 

David Rudloff

(tháilan dịch)

 

Chú thích:

 

* RATP: Régie Autonome des Transports Parisiens (Công ty Quản lý Giao thông Công cộng Paris).

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.