Hôm nay,  

Giật mình, ôi chiếc lá thu phai

05/06/202209:11:00(Xem: 4502)

Tạp bút

autumn leave

 

(Ở nhà mấy hôm đi loanh quanh, chụp hình mấy con đường lá vàng gần nhà mới thấy cũng cảnh vật này mà trước đây mình bận rộn quá nên không cảm nhận được cái đẹp đẽ của nó.  – Trích đoạn thư của một người bạn).

 

Tôi xin chia sẻ với anh về những cảm nhận và những gì anh vừa bắt chụp được. Tôi biết lòng anh đang thanh thản lắm. Chính sự thanh thản ấy đã đưa anh đến sự tỉnh thức để nhận biết được sự hiện hữu của những cảnh vật chung quanh mình. Sự sống tỉnh thức là một yếu tố thật quan trọng trong đời sống chúng ta. Thiếu tỉnh thức, ta sẽ có cuộc sống không tỉnh thức (nói theo kiểu hòa tiền), và đôi khi sự thiếu tỉnh thức một cách thái quá sẽ làm mất đi hẳn sự hiện diện của mình trên mặt đất này.

 

Đọc thư anh, tôi chợt nhớ tới một hoàn cảnh tương tự được thể hiện trong bản nhạc “Chiếc lá thu phai” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS), nằm trong số đĩa nhạc Trịnh anh gửi cho tôi, và đã làm tôi suy ngẫm.

 

Mùa xuân quá vội, mười năm tắm gội, giật mình ôi chiếc lá thu phai.

 

Tôi đoán, chữ "mười năm" ở đây chỉ để diễn tả cái gì đã lâu lắm rồi, như "Mười Năm Tình Cũ", "Mười Năm Yêu Em" (tên những bản nhạc) hay trong thơ của cụ Tản Đà:

 

Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi,

Tỉnh rồi lại muốn mộng mà thôi.

 

Khi tắm gội, lúc ta dễ thấy được toàn diện thân và ý của ta vì cảm giác dễ chịu và sự không che đậy lúc đó mang đến. Và chính những khi tắm gội ta thường bắt gặp được những điều kỳ diệu ẩn tàng trong ta. Ấy thế mà tới sau “mười năm” tắm gội, cho tới một lúc, TCS mới chợt tỉnh thức để nhận diện ra mình và thấy mình như "chiếc lá thu phai". Cái hay của ý này là sự ẩn dụ của già nua qua hình ảnh chiếc lá mùa thu. Lá mùa thu, một biểu tượng của sự tàn úa, thế mà ngay cả lá mùa thu ấy cũng đã phai màu để đi đến chỗ tàn khô. Và để rồi:

 

Chiều hôm thức dậy, ngồi ôm tóc dài,

Chập chờn lau trắng trong tay.

 

Anh thấy không, không phải chỉ riêng anh mới bất chợt cảm nhận được những sự vật hiện hữu ở quanh mình mà đã từ lâu anh tưởng như không có. Chung quanh ta toàn là phép lạ, toàn là những điều kỳ diệu đẹp đẽ, dù đôi khi chúng chỉ hiện hữu như những gì thật bé nhỏ tầm thường. Ta quên nó đi, hoặc không nhận ra nó, thật uổng biết bao. Có những lúc ta cảm thấy như ta đang "vong ân" với chúng và “vong ân” với cả chính ta. Có một lần tôi nghe một vị Thiền sư nói, có bao giờ ta tự nắm lấy bàn tay của chính mình mà cám ơn nó không, mặc dù nó đã phục vụ ta suốt một đời. Sự an nguy của nó chính là sự an nguy của ta, vậy mà đôi khi ta đã vô tình không nhận ra sự có mặt của nó.

 

Nhân tiện đây, trong giới hạn bức thư này, tôi xin chia sẻ với anh một vài ý nghĩ của riêng mình qua vài bản nhạc của TCS anh vừa gửi cho tôi. Anh hãy cùng tôi lắng nghe một đoạn trong bài "Rồi như đá ngây ngô":

 

… Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối

Đôi khi nhớ trong mắt em một bóng tối nhỏ nhoi

Từng ngày tình đến thiết tha ân cần

Từng ngày tình đi một vùng vắng im

 

Đôi khi thấy trong cánh chim từng đêm tối

Đôi khi nhớ trong tóc em mùi cây trái thơm tho

Đôi khi bước qua phố xưa lòng tôi nhớ

Đôi khi thấy trăm vết thương rồi như đá ngây ngô

 

Chắc bản nhạc này không xa lạ gì với anh. Khi nghe xong bản nhạc anh đã nghĩ và đã cảm nhận nó ra sao? Với tôi, tôi có cái nhìn hơi mang màu sắc “ĐẠO CA” trong đạo Phật về hai câu hát sau:

 

Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối

 

và trong câu

 

Đôi khi nhớ trong tóc em mùi cây trái thơm tho

 

Anh cùng tôi phân tích câu đầu nhé!

           

Đôi khi thấy trên lá khô một dòng suối

 

Tôi tự hỏi tại sao trên lá khô lại có một dòng suối nhỉ? Và anh có thấy dòng suối đang chảy trên lá khô không? Nếu không, chúng ta hãy cùng nhau đi tìm con suối ấy nhé.

 

Cứ dựa theo cách nhìn của một vị Thiền sư thì nếu chúng ta "quán chiếu" vào chiếc lá vàng một cách “tỉnh thức” (danh từ nhà Phật, quán chiếu nghĩa là nhìn sâu vào sự việc mà ta đang quan sát), ta sẽ thấy trước khi chiếc lá trở thành lá vàng, hay lá khô, chiếc lá đó phải là chiếc lá xanh. Khi chiếc lá còn xanh thì nó ở trên cây và nó là một phần tử của cây. Lá và cây tuy hai mà là một. Nay ta gọi chung là "cây". Cây thuộc về vũ trụ vì cây nằm trong vũ trụ và lớn lên trong vũ trụ.

 

Cây được hình thành và trở nên hiện hữu dưới dạng “cây” nhờ sự cùng kết hợp hay duyên hợp bởi những phần tử, bởi những yếu tố không phải là cây như đất, nắng, mưa, gió, chim chóc… có khi có cả bàn tay con người trong đó nữa. Nghĩa là trong cây chứa đựng toàn bộ những gì có trong vũ trụ, không thiếu một thứ gì. Thiếu những phần tử ấy, cây không thể có mặt. Do đó, nói một cách khác đi, cây nằm trong vũ trụ và vũ trụ cũng nằm ở trong cây.

 

Nào ta cùng quán chiếu thêm nhé. Như dẫn chứng ở trên, ta thấy trong cây chứa đựng toàn bộ vũ trụ, hẳn trong đó phải có mặt của nước. Nước nuôi cây lớn lên. Thế nước từ đâu mà tới? Nước đến từ những dòng sông, từ biển, từ ao hồ và từ suối bốc hơi lên thành mây và thành mưa. Và nước mưa trở lại đất để đến với cây. Nhờ có "quán chiếu" ta thấy rõ là trong cây có hình ảnh của suối. Cây có hình ảnh suối thì lá cũng vậy, dù là lá tươi hay lá khô đều có hình ảnh của suối cả.

Đến đây anh đã thấy dòng suối trên những lá khô ấy chưa? Trên lá khô, không phải chúng ta chỉ nhìn thấy có dòng suối mà ta còn thấy cả biển, cả núi non, cả gió, cả trăng, cả những con chim ca hót trên đó nữa... Như đã nói ở trên, cây nằm trong vũ trụ và vũ trụ cũng nằm trong cây, nghĩa là cây và vũ trụ không thể tách rời nhau ra được. Phải chăng chúng ta đang đi vào triết lý “nhất nguyên” của triết học Đông phương hay triết lý “bất nhị” của kinh Bát Nhã trong đạo Phật hay đang nói đến chữ Đạo (Being) trong Lão giáo vậy?

 

Và cũng cùng phương pháp như trên, ta "quán chiếu" câu thứ hai:

 

Đôi khi nhớ trong tóc em mùi cây trái thơm tho

 

cũng không có gì là bí ẩn và sâu xa cả.

 

Cũng như vị Thiền sư ấy nói thêm về từ ngữ "Trái tim mặt trời", chúng ta không phải chỉ tồn tại bởi nhịp đập của trái tim trong cơ thể ta mà thôi, mà còn phụ thuộc vào nhịp đập của trái tim mặt trời. Ta cứ tưởng tượng nếu trái tim mặt trời ngưng đập, mặt trời ra đi, chúng ta sẽ ra sao? Nói thêm ra, trái tim ta cũng đang nằm ở mặt trời. Từ đó suy ra ta không bé nhỏ như ta tưởng và chiếc lá khô kia cũng to lớn vô cùng.

 

Nếu anh cứ tiếp tục nghe hết bản nhạc này, thì rải rác suốt bài hát, ta quán chiếu được nhiều thứ lắm. Và cũng qua bài hát này ta có thể thay đổi được cách nhìn về cuộc đời.  Cái nhìn của chúng ta về cuộc đời sẽ đơn giản hơn, chính xác hơn, thoát hơn, nhiều yêu thương hơn và như thế chúng ta sẽ bớt đau khổ hơn.

 

Trái nghịch với sự đồng nhất là sự phân biệt. Cũng từ sự phân biệt ấy chúng ta phải luôn luôn đi tìm một đối tượng để suy nghĩ, để luận bàn, hay đánh giá, phê phán. Chính cái phân biệt đó, theo cách nhìn nào đó, ta thấy như nó đang đi ngược lại định luật tự nhiên của Trời Đất và nó làm cho đời sống trở nên phức tạp hơn lên. Mỗi vấn đề được đặt ra, dù là cái gì đi chăng nữa, nó đều dễ dàng trở thành những sợi dây xích, xích ta vào trong ngục tù của những quy luật ấy mà ta cứ tưởng như nó mới mẻ hay được sáng tạo ra một cách kỳ diệu. Hãy để mọi việc trôi chảy theo cái định luật hồn nhiênvô tư của đời sống. Và có lẽ đấy cũng là một phần tư tưởng giải phóng con người của nhà hiền triết Krishnamurti đó chăng?

 

Sự giải phóng con người bởi nhận thức “vạn vật đồng nhất thể” ấy thật quan trọng vô cùng. Nếu chúng ta cùng nhau tiến vào thế giới của "Không"(1), ta sẽ thấy đời sống của ta giầu có lắm và bất sinh bất tử. Cũng như cây, chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ ở trong ta, mà vũ trụ không mất thì ta ắt phải là bất tử. Sự bất sinh bất tử này đã thể hiện một cách thật sâu sa trong bài hát "Ngẫu Nhiên":

 

Không có đâu em này, không có cái chết đầu tiên,

Và có đâu bao giờ, đâu có cái chết sau cùng.

Tự mình biết riêng mình. Và ta biết riêng ta.

Tự mình biết riêng mình. Và ta biết riêng ta.

. . .

Mệt quá đôi chân này, tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi

Mệt quá thân ta này, nắm xuống với đất muôn đời.

Kìa còn biết bao người, dìu dắt tới quanh đây

Kìa còn biết bao người, dìu dắt tới quanh đây

 

Quả thật như thế, có vị Thiền sư nói cuộc đời ta là vô tận, bất sinh bất tử. Vị ấy nói tiếp, nếu ta "quán chiếu" ngược dòng thời gian, trước khi ta lọt lòng mẹ (tức ngày sinh), thì ta đã ở trong bụng mẹ chín tháng mười ngày. Ta đi ngược lại thêm, trước khi ta ở bụng mẹ, ta đã ở trong cha, trước cha, ta ở trong ông bà, trước ông bà, ta đã ở trong tổ tiên. Và cứ như thế, ta đi ngược lại mãi, ta sẽ biết là ta đã “có” từ lâu lắm rồi, và có thể chúng ta đã hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau cũng nên, nhưng ít ra là ta biết ta đã hiện hữu từ lâu lắm rồi. Sự “sinh ra” là phải đến từ không để thành có, mà đã có rồi thì chữ sinh ra không thể được đặt ra nữa. Khi đã không có sinh thì ắt không thể có tử.

 

Chính sự nhận biết về cái bất sinh bất tử ấy nên ta đã thấy được tiền kiếp của "em” trong “Rừng xưa đã khép”:

 

Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô

Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa

. . .

Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi

Ta thấy em đang ngồi hát khi rừng về nhiều mây.

 

Tiền kiếp của ta đôi khi được thể hiện dưới một dạng thức nào đó như những hạt bụi trong "Cát bụi" chẳng hạn:

 

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai vươn hình hài lớn dậy

Ôi! cát bụi tuyệt vời

Mặt trời soi một kiếp rong chơi

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai tôi về làm cát bụi.

Ôi cát bụi mệt nhoài

Tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi

 

Vâng, chúng ta có khi chỉ là những hạt bụi rong chơi hay cũng chỉ là vừng trăng chỉ biết lang thang trong vũ trụ. Chúng bị chi phối bởi định luật vô thường lạnh lùng nhưng sinh động, thể hiện khắp nơi nơi như quy luật sinh tồn của vũ trụ trong “Biết đâu nguồn cội”:

 

Em đi qua chuyến đò, ối a con trăng còn trẻ

Con sông đâu có ngờ ngày kia trăng s già.

. . .

Tôi vui chơi giữa đời, ối a biết đâu nguồn cội

Tôi thu tôi bé lại làm mưa tan giữa trời.

 

Và cũng chính thấy mình chỉ là một kiếp rong chơi, mà rong chơi mãi cũng thấy nhàm chán, đến mỏi quá đôi chân này và muốn tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi, rồi chúng ta chỉ còn thấy “Nghe những tàn phai”:

 

Chiều nay em ra phố về

Thấy đời mình là những chuyến xe

Còn đây âm vang não nề

Ngày đi đêm tới trăm tiếng mơ hồ

. . .

Chiều nay em ra phố về

Thấy đời mình là những quán không

Bàn im hơi bên ghế ngồi

Ngày đi đêm tới đã vắng bóng người

 

Để rồi đời người như đã “Phôi pha”:

 

Ôm lòng đêm nhìn vầng trăng mới về, nhớ chân giang hồ

Ôi phù du từng tuổi xuân đã già, một ngày kia đến bờ

Đời người như gió qua

. . .

Thôi về đi đường trần đâu có gì

Tóc xanh mấy mùa

Có nhiều khi từ vườn khuya bước về

Bàn chân ai rất nhẹ tựa hồn những năm xưa.

 

Và cuối cùng với một lời nhắn nhủ tha thiết trong “Một cõi đi về”:

 

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi

Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt

Giọi suốt trăm năm một cõi đi về

 

Cuộc đời cứ trôi chảy ngàn năm vô bờ vô bến trong vũ trụ, không khởi đầu cũng không kết thúc.

Tóm lại những cảm nhận chợt tỉnh thức của anh, hay của chính tôi hay của bất cứ ai, nó thường chợt đến rồi lại chợt đi. Đến rồi đi là lẽ thông thường trong cuộc sống, nó là lẽ vô thường vô cùng sinh động của tạo hóa. Ta hãy tận hưởng những hạnh phúc, dù trong khoảnh khắc, mà những cảm giác dễ chịu ấy mang đến cho ta, cũng như anh đang hưởng hạnh phúc khi nhận biết ra cái đẹp của những con đường lá vàng gần nhà trong những bức ảnh anh chụp và đã gửi cho tôi.

 

Cảm ơn anh đã gửi tặng cho tôi vài đĩa nhạc của nhạc sĩ TCS mà tôi vừa nghe, và xin ghi lại đôi hàng cảm nhận của mình, những cảm nhận hoàn toàn mang tính chất chủ quan.

 

*

Nay nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không còn nữa, nghĩa tử là nghĩa tận theo văn hóa nhân bản truyền thống của người Việt, tôi gửi đến nhạc sĩ bản nhạc “Để gió cuốn đi”, do chính ông sáng tác, về nơi chốn xa xăm nổi trôi nào đó có ông, như “một lời chia tay”.

 

Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người

Còn cuộc đời ta cứ vui

Dù vắng bóng ai, dù vắng bóng ai

Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi!

 

Nhân tiện đây tôi cũng xin gửi đến anh một bài thơ cuả người bạn thân gửi tặng cho tôi đã nói lên nỗi lòng xúc động khi anh ấy vừa nhận ra “chưa một lần nhìn kỹ mẹ” thì cũng là lúc anh vừa mất mẹ. Xin mời nghe:

 

Mẹ tôi!

 

Thân tặng anh Nguyễn Giụ Hùng

 

Mẹ thật thà, chất phác,

Mẹ mộc mạc, đơn sơ,

Mẹ hiền lành, nhút nhát,

Ngay cả với người thân.

 

Tuổi thơ của Mẹ, giòng sông nước mắt,                        

Mẹ Cha mất sớm, côi cút lầm than,

Trôi giạt cùng anh qua ngàn dặm khổ,

Khốn khó, nhọc nhằn, một cõi riêng mang.

 

Đến lúc gặp Ba, Mẹ thấy an bình,

Thấp thoáng cuối đường, lấp lánh bình minh.

Từ đó, Mẹ tận tụy lo cho chồng,

Và hết lòng chăm sóc đàn con.              

 

Đời sống Mẹ giản đơn, bình dị,

Tính Mẹ nhạy cảm, lòng Mẹ thiết tha

Ngậm ngùi xót xa theo nỗi buồn con cái

Vui mừng thoải mái với tiếng cười ròn rã của Ba.

 

Ngày con vào lính,

Me lặn lội đến Quang Trung,

Theo cậu Hai lên Thủ Đức.

Xót con cực khổ gian nan,

Mẹ thương, khóc với muôn ngàn đắng cay.

 

Rồi một buổi chiều buồn tháng bảy,

Sau khi đọc Bông Hồng Cài Áo,

Con ngỡ ngàng phát hiện lương tâm.

Lòng nhủ thầm,

Chưa một lần nhìn kỹ Mẹ,

Chưa một lần nói tiếng thương yêu.

 

Hừng sáng hôm sau,

Vội vàng, con trở về quê,

Trên chiếc xe đò sớm nhất.

 

Lòng bồn chồn, nao nức,

Mong gặp lại Mẹ,

để nhìn thật kỹ,

để ngắm thật lâu,

khuôn mặt mẹ hiền,

và để tỏ lòng yêu thương

Mà bao năm trường sống cạnh

Chưa một lần con nghĩ đến.

 

Nào ngờ đó chỉ là ước mơ

Của nghìn đời hiu hắt,

Vì Mẹ vừa mới qua đời

Chỉ vài giờ trước đó,

Sau một đêm dài trăn trở đớn đau.

 

Mẹ ơi!

Lòng con đau hơn dao cắt,

Ruột con quặn thắt từng cơn,

Đầu óc con hoang mang, 

Chơi vơi trong khoảng trống ngút ngàn.

 

Bóng tối chập chùng

Cuồn cuộn bủa vây.

Từ nay, vĩnh viễn

Không bao giờ con được gặp Mẹ.

 

Mẹ ơi!

 

(Đặng Minh Chấn, Lancaster, Pennsylvania).

 

(Những hàng chữ nghiêng trong bài thơ do NGH chuyển đổi từ hàng chữ thẳng)

 

Nguyễn Giụ Hùng

 

Ghi chú:

 

(1) Tính “không” được diễn dịch bởi nhiều trường phái, thí dụ như:

- Kinh điển Phật giáo

- Duy thức

- Trung quán luận của ngài Long Thọ.

 

Ngài Long Thọ viết: “Sự vật nào có nguồn gốc phụ thuộc, tôi gọi là không. Và rồi sự vật đó lại được định danh một cách phụ thuộc”. (trích bài giảng trong quyển Tứ Diệu Đế của Đức Dalai Lama thứ 14, do Võ Quang Nhân dịch và Nguyễn Minh Tiến hiệu đính).

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.