Hôm nay,  

Khung Đời Treo Lệch

09/06/202223:59:00(Xem: 2457)



 

“Chưa ngủ à?” Người đàn ông ngưng gõ, những đầu ngón tay nằm hờ trên bàn phím máy điện toán. Đọc lại dòng chữ vừa hiện lên trên màn hình, anh bấm nút gửi và ngồi dựa ra lưng ghế, chờ.

 

“Chưa ngủ mới nói chuyện với anh. Hỏi gì mà ngớ ngẩn.” Câu trả lời hiện ra thật nhanh.

 

Anh loay hoay tìm những nút bấm để gửi đi cái hình khuôn mặt đang cười. Rồi anh nhanh tay gõ dòng chữ, “Em chưa buồn ngủ à?”

 

Anh hỏi vậy bởi giờ này bên cô đã quá nửa đêm rồi.

 

“Buồn ngủ rồi.” Ở đâu đó thật xa, câu trả lời của cô gái bay về, đáp xuống màn hình.

 

“Buồn ngủ sao còn thức?”

 

“Em đi ngủ đây.” Cô gái trả lời, cụt ngủn. Chỉ là những dòng chữ nhưng người đàn ông cũng nghe ra được cái giọng giận dỗi của cô. 

 

Anh gõ vội bàn phím, “Khoan, thức nói chuyện với anh một chút.”

 

“Nói chuyện với anh chán chết.” Cô đáp.

 

Hình dung cái mũi cô chun lại, môi cô trề ra, giận dỗi, anh ghẹo, “Chán mà vẫn cứ phải nói chuyện với anh mới ngủ được.”

 

Hai người vẫn vậy. Thuốc an thần và thuốc ngủ. Hai người là như thế của nhau. Khi trong lòng cô bất an, anh là thuốc an thần cho cô; khi anh mất ngủ, cô là những viên thuốc ngủ cho anh.

 

Bây giờ đang là chiều nơi anh, nhưng đêm đã khuya ở chỗ cô. Lẽ ra giờ này cô đã phải ngủ được mấy giấc rồi mới đúng. Nhưng bị cái tật nhiều chuyện. Họ cứ qua lại như thế. Cho đến khi câu chuyện đang sôi nổi bỗng lắng xuống. Câu anh hỏi hiện lên. Những con chữ đứng một mình. Không có những con chữ từ phía cô quấn quýt, mời chào, níu kéo nhau, lũ chữ của anh chợt bơ vơ. Và lúc ấy người đàn ông biết ở nơi xa lắc xa lơ kia cô gái của anh vừa mới ngủ thiếp đi. Anh hình dung cái Ipad nằm một bên chiếc gối bông, đầu cô nghiêng về phía ấy. Tóc trải loang mặt gối.

 

Anh vẫn thường mơ ước có một lần được đứng bên giường ngắm cô ngủ quên và nhẹ nhàng cúi xuống, kéo tấm chăn đắp cho cô.

 

Hôm nay cô tỉnh táo. Cô kể cho nghe đủ thứ chuyện. Chuyện trong nhà. Bố, mẹ, và bầy em. Chuyện chỗ làm. Ông giám đốc, bà phó giám đốc, mấy con bé nhi nhô ra vào phòng làm việc của ông chủ như đi chợ. Rồi những câu đối thoại qua lại chậm dần. Rồi cô lại ngủ quên như đã nhiều lần ngủ quên. Người đàn ông vẫn để nguyên màn hình với những câu đối thoại dang dở. Cả những câu anh nói một mình. Và anh xoay qua công việc dở dang buổi sáng trong sở làm. Những con số trương mục cuốn lấy nhau rối cả mắt. Tháng này công ty đã sa thải vài nhân viên vì tình hình tài chánh không mấy sáng sủa. Thỉnh thoảng anh cũng thoáng lo âu, không biết khi nào thì tới phiên mình mất việc. Nỗi lo âu ấy không biết chia sẻ với ai. May mà quen được cô.

 

Chợt điện thoại reo vang. Góc màn hình chớp nháy. Cô gọi anh qua messenger. Chuyện này hiếm khi xảy ra. Chắc có chuyện gì bực bội trong chỗ làm khiến cô không ngủ được. Anh cảm thấy như thế. Dù hai người ở cách xa mấy múi giờ, anh vẫn cảm nhận được khi có điều gì đó bất ổn nơi cô. Anh bấm nút nhận. Và khuôn mặt trái soan của cô hiện ra trên màn hình máy điện toán của anh. Hai con mắt nhắm hờ, ngái ngủ.

 

Cô ngồi trên ghế, trước bàn làm việc, đầu hơi cúi ra phía trước, tóc thả xuôi hai bên vai.

 

“Hey!” anh nói, kéo dài cái giọng reo vui.

 

Cô nói ngay, “Em không ngủ được.”

 

“Có chuyện gì phải không?” Anh hỏi và nhìn chăm chú khoảng trống căn phòng phía sau lưng cô. Bức tranh chân dung một cô gái có nét giống cô treo trên tường phía đầu giường. Vách tường vôi màu xanh nhạt hơi tối dưới ánh sáng ngọn đèn bàn nơi cô đang ngồi. Ánh sáng nhá nhem nhưng anh cũng nhìn ra được đôi mắt cô gái trong bức tranh. Đẹp và sáng long lanh, hệt đôi mắt của cô.

 

“Không có chuyện gì hết.” Cô lắc đầu, rồi cô nói loanh quanh chuyện ở chỗ làm. Chuyện đi shopping hôm cuối tuần với con nhỏ bạn lâu lắm mới gặp lại. Và chuyện những con chim thường sà xuống quanh cô khi cô lên sân thượng, mang theo những mẩu bánh mì vụn. Những chuyện ban nãy đã kể cho anh nghe trên tin nhắn.

 

Anh ngồi im lắng nghe cô nói. Chợt trong khoảng nhập nhoạng sau lưng cô lờ mờ một vạt khói đen. Anh ngểnh cổ, nheo mắt nhìn cho rõ. Vệt khói đen cuộn lại rồi xoay vòng. Cháy nhà chăng. Anh nghĩ. Nhưng cũng có thể từ sáng đến giờ, nhìn mãi màn hình mắt anh bị ảo giác. Anh chùi mắt nhìn cho rõ. Chất màu xám tối của khoảng không gian thiếu ánh đèn lập lờ như khói thuốc gom lại dần và tụ lại thành hình dạng. Ô trời, cái bóng mang hình dạng con người. Anh lại dụi mắt, săm soi nhìn. Ai thế này. Quen thân mấy năm trời anh biết chắc không phải chồng của cô. Cô làm gì đã có chồng. Thôi rồi, chắc cô thức khuya nên người nhà của cô lên phòng nhắc đi ngủ sớm, ngày mai còn đi làm đây chăng. Anh lặng im, nhướng cặp lông mày, nhìn chăm chú cái bóng vừa mới lướt qua phía sau lưng cô. Và anh nhận ra bóng một người đàn ông. Ông ta bước đi khập khiễng như thể bị trật khớp cổ chân bên phải. Ánh sáng ngọn đèn chụp thu gọn vào khoảng bàn học của cô nên anh không nhìn rõ được khuôn mặt của gã.

 

Tim anh thắt lại trong lồng ngực.

\

“Em à,” anh ngắt lời cô. Anh muốn nhắc cho cô biết bố hay anh ruột của cô đang có mặt trong phòng, để cô đừng kể ra những chuyện riêng của hai người. Nhưng cô không để ý đến cái nháy mắt, cái nheo mày, cái lắc đầu như của con bệnh động kinh đang biểu hiện nơi anh.

 

Bóng người đàn ông đến sau lưng cô, khuôn mặt và thân hình chìm sâu trong vũng tối, anh cố nheo mắt nhìn nhưng không nhận ra được nét nào quen thuộc của cái hình hài lạ lẫm ấy. Gã đứng tần ngần nhìn cô. Cô vẫn thao thao kể chuyện ăn hàng hôm cuối tuần với con nhỏ bạn lâu lắm không gặp. Cô kể cho anh nghe chuyện con bạn khác đính hôn với người yêu nhỏ hơn nó cả chục tuổi nhưng giàu có nhất nhì thành phố. Giọng cô reo vui. Như thể cô chính là vị hôn thê của gã thanh niên nhà giàu ấy. Anh đưa ngón tay lên miệng, ngúc ngoắc ra dấu cho cô. Cô vẫn không để ý. Trong lúc ấy cái bóng đàn ông khập khiễng lướt qua phía vách tường, gã đứng lại bên bức tranh, nghiêng đầu ngắm nghía. Rồi gã đưa tay sửa cho bức tranh lệch nghiêng qua bên trái. Gã nghiêng đầu theo chiều nghiêng bức tranh rồi gật gù vẻ hài lòng.

 

“Bức tranh trên tường giống em quá!” Anh buột miệng, nhắc nhở.

 

Cô như bừng tỉnh, “Ồ, em đó. Anh thấy giống không?”

 

Anh nhìn cái bóng người đàn ông - phía sau lưng cô - đang nghiêng đầu ngắm nghía bức tranh, rồi những ngón tay mờ đục đưa lên rờ rẫm viền con mắt cô gái trong tranh. Anh nín thở, nói vội, “Giống lắm, nhất là hai con mắt.”

 

Cô ngước lên, với tay bật thêm nút bấm ở ngọn đèn, căn phòng chợt chan hòa ánh sáng. Cái bóng người đàn ông sau lưng cô tan loãng ngay vào vùng ánh sáng trắng xanh ấy. Ở đầu này, anh suýt bật lên một tiếng kêu thảng thốt.

 

Tim anh đập rộn ràng trong lồng ngực. Rõ ràng cái bóng người đàn ông ấy vừa mới đứng nghiêng đầu ngắm bức tranh. Vẻ say mê ấy khiến trong phút giây anh nghĩ đấy là bố hay anh ruột của cô, và người ấy mới nhìn thấy bức tranh lần đầu đã bị cuốn hút bởi ánh mắt con gái hay cô em ruột của mình trong tranh.

 

“Anh thấy giống em không?” cô nhắc, và đẩy ghế, xoay người nhìn về phía bức tranh.

 

“Giống, giống lắm, nhất là đôi mắt... nhưng mà...”

 

“Ông họa sĩ vẽ em đó.”

 

Cô nhắc tên một ông họa sĩ nổi tiếng. Ông này thì anh biết. Nổi tiếng cả trong và ngoài nước. Thiên hạ vẫn ví von ông là Picasso của Việt Nam.

 

“Em ngồi mẫu cho ông ấy vẽ à?” Anh hỏi.

 

Cô đẩy ghế đứng dậy, bước về phía vách tường. Cô đứng ngay chỗ bóng người đàn ông vừa mới đứng. Anh có cảm tưởng nếu không có mái tóc thả ngang lưng, cô chính là cái bóng đàn ông ban nãy. Cô vừa đưa tay sửa cho bức tranh ngay ngắn lại, vừa lắc đầu nói một mình, “Sửa hoài mà nó cứ lệch qua một bên.” Rồi cô chỉ tay vào những chữ nhỏ li ti ở góc khung tranh. “Ông ấy đề tặng em rồi ký tên ở đây nè.”

 

Tim vẫn xốn xang trong lồng ngực, anh lập lại câu hỏi, “Em ngồi làm mẫu cho ông ấy vẽ à?”

 

“Không có đâu.”

 

“Sao giống thế.”

 

“Ông ấy lấy hình em trên Facebook đó.”

 

“Giống quá chừng.”

 

“Ông ấy quý bức tranh lắm. Ông bảo ông ấy vẽ trong phút xuất thần, và có muốn vẽ lại cũng không thể được như vậy nữa. Ông ấy bảo thương em lắm mới cho em bức tranh này. Ông ấy kỳ lắm nghe, lúc tặng tranh ông ấy nhất định bảo phải treo lệch qua một bên bức tranh mới có hồn. Em chẳng hiểu tại sao.” Cô chậm rãi nói, và cô bước trở lại phía bàn học, giọng bỗng dưng buồn thiu, “Em đang buồn chuyện ông ấy đấy.”

 

“Sao vậy?” Anh hỏi, lòng vẫn xớn xác vì cái bóng đàn ông ban nãy trong phòng cô. Những câu hỏi hò hét, xô đẩy nhau trong đầu chỉ chực bung ra cửa miệng. Nhưng anh không dám hỏi. Anh không muốn cô lo lắng. Nên anh lặp lại câu hỏi, “Sao vậy?”

 

Cô ngần ngừ một lúc. Anh kiên nhẫn nhìn sâu vào nét buồn trong đôi mắt. Mắt cô biết nói, và thường thì đôi mắt ấy - như đôi mắt trong bức tranh treo trên tường kia - đầy ắp tin yêu, nhưng hôm nay, giờ này, trong mắt cô u uất nỗi niềm nào đó khó đặt tên.

 

“Chuyện ông ấy... sao hở em?” Giọng anh nôn nóng. Anh nghĩ đến những chuyện trái luân lý vẫn thường xảy ra giữa đàn ông và đàn bà; đến những đòi hỏi ngược ngạo đám nghệ sĩ hay ném cho nhân gian.

 

“Ông ấy bị tai nạn, què một chân, phải ngồi xe lăn, rồi lại dồn dập thêm đủ thứ bệnh, ông ấy bảo khi nhắm mắt, muốn nhìn thấy em, muốn thấy em cười với ông ấy trong phút giây cuối đời, để ông ấy yên tâm ra đi.” Cô thong thả kể cho anh nghe bằng giọng rầu rĩ.

 

Ở nơi này, cách cô mấy múi giờ, anh cảm thấy như có bàn tay lạnh ngắt siết chặt lấy cổ mình. Giọng cô vẫn đều đều như đang rì rầm kinh nguyện, “Ông ấy làm em sợ.”

 

Anh nôn nóng, “Nhưng em có hứa...” 

 

“Không có đâu,” cô ngắt lời anh. “Sợ muốn chết, ai mà dám.”

 

“Không thì thôi, có sao đâu.” Anh trấn an.

 

“Nhưng mà ông ấy vừa mới chết rồi!” Cô nói, nhẹ như đứt hơi.

 

Tim anh chồm lên trong lồng ngực, “Chết rồi à?”

 

“Mới đây thôi. Em mới đọc tin trên Facebook. Mới cách đây hai hôm ông ấy còn gọi điện cho em bảo nhớ treo bức tranh lệch qua bên trái một tí mới được. Ông ấy bảo khung bức tranh cũng như khung đời người, hoặc khung tình ái, phải treo lệch đi một tí, cuộc đời, cuộc tình mới suôn sẻ. Bây giờ em áy náy quá, không biết phải làm sao nữa.”

 

Chủ Nhật 29 tháng 05, 2022

 

Link YouTube: https://youtu.be/8om2V9ZT5PY

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.