Hôm nay,  

LI – LA – DO

28/06/202221:25:00(Xem: 3362)

Truyện ngắn

DTChinh_3
Tranh Đinh Trường Chinh.

 

Như thông lệ, sau khi ăn sáng, nàng uống một ly trà sữa. Và năm viên thuốc màu trắng. Hai viên con nhộng nhỏ. Ba viên hình ngũ giác. Thuốc điều chỉnh tâm trạng. Thuốc chống trầm cảm. Thuốc ngăn chặn những xung động cảm xúc dẫn truyền qua những xì-náp thần kinh nhỏ li ti chi chít trong đại não. Hai viên Do. Ba viên La. Nàng cười cười, sáng nào cũng uống DoLa, cùng âm với Dollar, chỉ có điều những đồng Dollar Mỹ màu xanh biếc lấp lánh tỏa ra mùi tiền, mùi xa hoa hưởng thụ. Do-La của nàng màu trắng, không có mùi tiền, chúng lạnh lẽo vô hồn. Dollar mang đến cho người ta sự an tâm vật chất, Do-La mang đến cho nàng “cuộc sống bình thường” và đồng thời, những cuộc phiêu lưu dài vô tận.

Nàng quen, và cần những viên thuốc điều chỉnh mood như thế. Để có thể hoạt động bình thường. Để có thể có cảm giác bình thường. Như bị ghiền. Không lên đồng bay bay như ma túy, nhưng riết róng trong máu không bỏ được. Như những người tình chung thủy, không thể vắng mặt, không thể đuổi xua. Mỗi lần thử từ bỏ chúng, cơn bất ổn đánh nàng gục ngay từ ngưỡng cửa, nàng bấn loạn, khóc như chưa bao giờ được khóc. Than trời trách đất, kề con dao lên cổ tay, mua một đống thuốc về phòng đóng cửa âm thầm lập mưu tự tử. Mọi người an ủi nàng. Vô dụng. Con gái van xin nàng. Vô dụng. Trong thẳm sâu tận cùng tuyệt vọng, nàng lết đến gần những người tình của mình. Và lần nào cũng thế, bằng đôi tay khi lạnh lùng hờ hững khi riết róng trườn trên thân thể nàng như những con rắn nước, xâm nhập lục phủ ngũ tạng và thẩm thấu giác quan nàng như mưa rả rích thấm vào lòng đất mềm, chúng dần dần mang trả lại cuộc sống bình ổn cho nàng. Với một cái giá phải trả, sự lệ thuộc, sự nô lệ, ở một mức độ nào đó. Và những đánh đổi khác. Nàng không lối thoát. Nàng hoang mang, tuyệt vọng. Nhưng nàng vẫn phải sống.

Trước đây, người tình chung thủy của nàng là Li, không phải La. Như số mệnh được vạch ra trong chỉ tay nàng là phải muôn đời thủy chung với màu bệnh viện, màu trắng, Li cũng màu trắng, viên tròn phốp pháp, có một gạch chia ở giữa bụng. Li hay dùng đôi bàn tay trắng nhợt, cũng phốp pháp mân mê xoa xoa lên bụng nàng, nhấn giữa cuống rún hõm sâu, quặn lên những cơn đau nho nhỏ, âm ỉ. “Anh đừng làm đau em!” Bác sĩ, sau khi biết chuyện, cho nàng những viên Li “slow release” (thuốc giải phóng chậm). Li không làm đau nàng nữa, âu yếm ôm hôn nàng, mỗi ngày hai lần, thành quen. Không thể thiếu. Li bọc nàng trong một cái màng mỏng, trong suốt, lờ mờ, lù mù. Một cái màng zombie-like, tức là, lọc đi rất nhiều cảm xúc, nàng trở nên lờ rờ chậm chạp như những xác chết biết đi trong những bộ phim kinh dị rất thường thấy của phương Tây. Li cho nàng cảm giác lơ mơ uể oải trễ nãi lười biếng. Li buộc trói cảm xúc nàng, và nàng gần như không bao giờ biết sợ. Ngày con nàng nổi mẩn đỏ đầy cánh tay chỉ sau khi sinh một tuần, chồng nàng hốt hoảng rụng rời, lái xe run tay trên đường chở con đến bệnh viện, nàng điềm tĩnh lạnh lùng dường như không chút cảm xúc. Li thầm thì vào tai nàng “Đừng lo! Không sao đâu!” Mỗi ngày, Li thích chơi đùa nói chuyện với nàng gần 3 đến 4 giờ, đưa nàng vào cảm giác mơ màng mụ mị rồi mới thả ra cho nàng làm việc. Còn chuyện yêu đương, Li thường đến với nàng mỗi tháng, sau này thường hơn, mỗi hai tuần một lần, thả đôi bàn tay trắng nhợt vào âm đạo nàng, lại quặn lên những cơn đau rát, sau một vài lần đê mê. Không hẳn là một người tình bạo lực, nhưng Li chưa bao giờ để ý đến cảm xúc của nàng. Có nhiều lần nàng thống thiết van cầu Li buông tha, Li không mủi lòng. Li sở hữu nàng trong những ngày đó, đẩy chồng nàng ra thật xa. Người chồng yêu thương vợ hết lòng và không bao giờ đủ can đảm nhìn nàng khóc chỉ có thể tự âm thầm thỏa mãn, để cô vợ ngủ yên sau những giờ vật vã với người tình. Họ vẫn sống, cuộc tình tay ba song song tồn tại trong ngôi nhà nhỏ.   

Li thích nàng phốp pháp giống như hắn, khuyến khích nàng ăn. Rất nhiều. Li giữ nước cho nàng, tiếp nước cho nàng. Và nàng mập lên nhanh chóng. “Không sao, anh vẫn yêu em mà”, Li thầm thì vào tai nàng. “Em mập lên càng có nhiều da thịt cho anh yêu”. Mù mờ, mụ mị, nàng nghe lời, và dựa vào Li. Cũng không còn chọn lựa nào khác. Li cho nàng an ổn, cho nàng vô lo. Bỏ Li rồi, những cơn trầm cảm, những bấn loạn cảm xúc bộc phát bùng nổ và dữ dội sẽ trở lại. Nàng chấp nhận, một hiện thực không phải hoàn toàn tươi sáng nhưng khả dĩ.

Li, trong những phút rộng rãi của hắn, cũng cho nàng một chút ân huệ. Nàng thích viết, nàng thích văn thơ. Li cho nàng viết. Nàng thích phiêu lưu tình ái ảo tưởng. Li cho nàng phiêu lưu. Cái vòng bảo vệ của Li cho phép nàng chơi đùa với cảm xúc của mình vì tất cả những đau khổ đã được lọc bớt, giảm dần. Thậm chí, những giày vò của Li với nàng cũng giúp nàng viết được những bài thơ, khi thì đau đớn chịu đựng, khi thì sâu sắc bản lĩnh hơn người. Nàng mấp máy môi khi hôn hắn, say đắm: “Em yêu anh, Li. Anh cho em sự sống một lần nữa.” Và nàng cứ nghĩ mình sẽ ở cạnh Li mãi mãi.

Nhưng bộ mặt thật của Li dần dần bộc lộ theo năm tháng. Ngoài việc hành hạ nàng mỗi tháng, mỗi hai tuần, mỗi tuần, Li còn muốn hủy diệt nàng, để nàng là của hắn, vĩnh viễn. Từ từ, chầm chậm, ngày qua ngày, những ngón tay uốn éo của Li mân mê vùng cổ nàng, chui sâu qua lớp da nhợt mỏng manh vò nắn, bóp lấy cánh bướm nhỏ phập phồng giữa cổ, siết chặt. Tuyến giáp. Li thích nó. Hắn thích mang nó theo. Li cấy vào đó một cái mầm màu trắng. Từ đó, mọc ra K, vốn luôn là đại diện tử thần. K âm thầm lớn, âm thầm sinh sôi, âm thầm lan tỏa. Nàng không hay biết. Nàng cứ tưởng Li chỉ chơi đùa. Li không bao giờ nói gì về sở thích chết người của hắn. Khuôn mặt thật chết chóc ẩn tàng đằng sau vẻ ngoài phốp pháp ấm áp. Nếu không có một biến cố đột ngột trong đời, có lẽ Li đã thực sự đưa được nàng về cõi vĩnh hằng với hắn. Nhưng, nàng đã được cứu rỗi. Mình có tu, chỉ tay mình có sinh tạo đôi, nàng nghĩ.

Giãy được K ra, nàng cũng đánh mất đi cánh bướm đời mình. 21.3 gram. Cái giá phải trả cho một cuộc tình mười năm. Nàng khóc. Nước mắt. Như mưa. Đẫm ướt cuộc đời. Không vụng trộm như những ân ái với Li, nàng đã có một lý do rất chính đáng để khóc. Để than vãn. Và tiễn Li ra khỏi cửa, sau khi bộ mặt thật của hắn đã bộc lộ.


Vật vã. Đau đớn. Vật lộn trong những tháng ngày thiếu Li. Nàng nghĩ, giá mà mình có thể một lần nữa, được sờ vào khuôn ngực lạnh lẽo trắng như cẩm thạch ấy, cảm thấy những ngón tay trắng uốn éo như rắn ấy bò lên người, đê mê, bỏng rát, ngứa ngáy, rồi giải phóng, an ổn, ấm áp, yên lòng. Trong những đêm dài đau xót nàng sờ soạng khắp cơ thể mình, cảm thấy ngay cả một chút hứng khởi cũng không có. Trầm buồn. Một vòng xoáy trôn ốc kéo xuống vực. Lại muốn chết. Muốn tự tử. Và trong những ngày u ám đó, La mở vòng tay đón nàng.

La, ngay từ đầu, đã bảo “Anh chỉ làm cho em bớt buồn. Em điên lên thì liệu mà đi tìm người khác, anh không chứa”. La, lạnh lùng và hờ hững, không hề giả vờ ấm nóng che chở. La, lúc mới đến, chỉ cho nàng từng chút nhỏ quan tâm, khi đã yên tâm nàng yêu hắn thật nhiều thì La mới che chở nàng. Hắn yêu nàng cũng nồng nàn hoang dại không kém Li. Vầy vò, đâm thọc. Những ngón tay gân guốc đầy móng sắc chạy khắp chiếc eo thon, bờ lưng nhỏ, cào cấu nàng trong những cơn mê đắm hoang dại. Lần nào ân ái với La, người nàng cũng sần sùi đỏ. Rash. La cười, hắn thích để lại dấu vết sở hữu trên những người yêu của hắn. Nhưng trong vòng ôm của La, nàng lại được là chính mình. La trả lại cho nàng những cảm xúc thật, điều mà nàng ngỡ đã vĩnh viễn mất đi với Li. Không màu mè, không có cái vòng mụ mị an toàn như Li. Rất sắc lạnh, đôi khi tàn nhẫn. Có lần nàng đang loay hoay làm việc bỗng nhận một cái tát như trời giáng của La vì đã quên hôn hắn. Nàng khóc, sướt mướt, đau đớn. Rồi phải đẩy cơn buồn bực đi, lại cố gắng làm việc. La cười trâng tráo “Thấy không, em đã tốt lên bao nhiêu. Chuyện gì em cũng chịu được. Anh phải tập cho em làm quen với cuộc sống thật như thế.”  La đổi tính luôn luôn luôn. Với La, nàng hoàn toàn không biết được ngày mai sẽ như thế nào. Cuộc sống của nàng, mood của nàng, bây giờ, được tính theo ngày. Theo buổi. Theo giờ. Vẫn không có cách nào khác, nàng tập thích ứng, tập chống chọi.

La ích kỷ hơn Li. Hắn không muốn nàng viết. “Văn chương chỉ tổ làm hư người, hãy quan tâm vào cuộc sống thực tế, đặt bát cơm lên bàn ăn mỗi ngày”, hắn nói. Thấy nàng hăm hở chuyện trò với một đám văn sĩ, già có trẻ có, hắn nắm tóc xồng xộc kéo nàng về. “Không viết. Không thơ thẩn. Không chuyện trò với ai cả.” La tống cho nàng một đống nghĩa vụ trong gia đình bên cạnh việc phải chăm sóc và phục vụ hắn. Bơ phờ, xác xơ, nàng vẫn phải ở bên cạnh hắn, đấng cứu rỗi của nàng. Nàng, cần lắm, những phút mê đắm. Nàng, cần lắm, những ổn định trong vòng tay che chở sắc lạnh của hắn. Thi thoảng, những khi La ngủ, nàng vẫn cầm bút, vụng trộm viết một cái gì đó, vụng trộm đi mua phong bì, dán tem, gửi đi, vụng trộm nhìn những bài viết của mình được đăng trên báo. Rồi cất vào ngăn kéo sâu nhất, tất tả khoác lên tấm áo hiền đức nội trợ chăm làm thường ngày của mình. Và yêu La.

Sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không kể đến Do, người bạn thân thiết dài lâu của nàng. Do có được định nghĩa là người tình không thì nàng không biết. Do thân với nàng hơn bạn, nhưng lại chưa đủ gần để được định nghĩa là người tình. Do chỉ hôn nàng, ve vuốt bộ ngực nàng, và say mê ngậm hai đầu vú nho nhỏ hồng hồng của nàng đến cương cứng. “Chúng ta chỉ là bạn”, mỗi khi thỏa mãn, Do lại nói thế, và xoa đầu nàng. Do rất thích gặm mút ngón tay, ngón chân của nàng, nhưng không bao giờ chạm vào vùng kín của nàng. “Chúng ta chỉ là bạn”, hắn nhắc lại. Rồi lại cắm cúi trên bộ ngực nàng. Nàng không sợ Do. Nàng không có ám ảnh với Do như với Li và La. Lúc nào nàng cũng có cảm giác Do giúp nàng. Do chinh phục nàng vì cái vẻ hiền lành dễ mến dễ gần của hắn. Đến gần Do, bao giờ nàng cũng cảm thấy tỉnh táo. An tâm. Không mụ mị. Hắn giúp nàng đọc những trang báo tiếng La-tinh, hắn giúp nàng giải những phương trình toán học rắc rối, hắn giúp nàng biết phải trả lời những câu hỏi hóc búa của sếp như thế nào. Hắn đến thăm nàng thường xuyên, nhưng không bao giờ ngủ lại. Có lẽ, hắn không muốn một cuộc chung đụng tay ba tay tư chăng. Nàng không rõ.

 

Li, ngày đó, và La, bây giờ, đều biết về sự hiện diện của Do. Li ghen tuông hơn, Li hay nói mát mẻ và tìm cớ kết thúc sớm cuộc viếng thăm của Do. La, ngược lại, còn hào hứng chào mừng Do đến chơi vì hai người có cùng sở thích và có thể hàn huyên mấy tiếng đồng hồ. Cũng có thể, vì Do đã là một mối quan hệ sâu sắc được thiết lập bền vững trong đời nàng khi La bước vào, nên hắn không hề cố kỵ và tìm cách xua đuổi Do.

Do cũng không thích nàng quen thêm nhiều người khác. Hắn đồng ý với La là nàng không nên viết nhiều, không nên chơi với đám văn sĩ cò con vĩ cuồng kia. Do thích nàng có một bộ mặt lạnh lùng, một trái tim sắt đá và một đầu óc tinh tường. “Tính hiệu quả, là điều quan trọng nhất, trong tất cả những việc em làm.” Do luôn nhắc đi nhắc lại với nàng như thế. Có những khi nàng hơi sợ Do. Nàng cảm thấy bên cạnh hắn, nàng như người máy. Những lúc đó nàng lại lẳng lặng trốn Do và không gặp mặt mỗi khi hắn tìm đến. Không có Do, nàng sẽ thả hồn mơ mộng. Không có Do, nàng sẽ ngập tràn cảm xúc, lãng mạn yêu đương. Không có Do. Không với Do.

Đêm nay, sau khi chồng con yên giấc ở phòng ngủ, tìm cho La một bộ phim trinh thám giết người như ý hắn, và biết chắc Do không ghé thăm, nàng háo hức giở một tờ tạp chí mới vừa nhận được. Một người bạn văn mới gởi cho nàng, trong một phong bì giấy cứng. Tờ tạp chí chưa ráo mực, nội dung rất mới, tân kỳ, sáng tạo. Trong lời tòa soạn, sau những phát biểu về tình hình khó khăn nhàm chán của văn giới hiện tại, tạp chí bày tỏ mong muốn tìm những tác phẩm “tràn viền”, những sáng tác khi con người ta vô thức, chênh chao, bất ổn. Họ muốn những cuộc phiêu lưu, có thể là có thật, có thể là giữa cơn mơ, có thể là tưởng tượng. Những cơn điên ngắn. Chợt nàng cảm thấy buồn cười. Nàng không dám cười to, sợ chồng con thức giấc, sợ đánh động La ở phòng khách. Họ đi tìm ảo tưởng, tìm cơn điên ngắn ở những người bình thường. Còn nàng? Nàng có quá nhiều cơn điên dài. Có quá nhiều thuốc thang. Vô vàn phiêu lưu. Ngập tràn ảo tưởng. Con người nàng, lúc nào chẳng chực tràn viền. Và những cuộc phiêu lưu của nàng, có ai biết được, có ai dám nghĩ tới. Nàng nhắn tin cho Do “Tuần này em bận, tuần sau anh hãy ghé em”. Rồi cầm lấy bút, và bắt đầu viết. À, nàng viết về ai trước nhỉ! Li, La, hay Do…

 

Trần Hạ Vi

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.