Hôm nay,  

Nước Mỹ đáng yêu

03/07/202220:50:00(Xem: 3640)

Truyện ngắn

CO MY-AARP

 

Gia đình chị Bông đến Mỹ định cư được hai tuần, ở nhờ trong nhà người em trai chị Bông. Vợ chồng em thay phiên nhau chở gia đình chị Bông đi làm các giấy tờ cần thiết và lãnh tiền trợ cấp tị nạn. Ngồi trong xe thấy em lái xe chạy vù vù lúc thì sang làn trái khi thì sang làn phải chen vào dòng xe cộ nườm nượp mà chị Bông chóng cả mặt, chị Bông ngao ngán nói riêng với chồng:

 

– Chắc em không thể nào lái xe hơi được đâu, chúng ta sẽ mua một chiếc xe gắn máy hai bánh như ở Việt Nam, anh chở em đi làm đi chợ cho chắc ăn. Chỗ nào gần em sẽ đi bộ cho anh đỡ phải chở.

 

Nghe vợ than thở anh Bông cũng nao núng, chị Bông dụ dỗ tiếp:

 

– Với lại đi xe gắn máy… đỡ tốn xăng.

 

Sau hai tuần em trai nói với vợ chồng chị Bông:

 

– Mọi thứ giấy tờ xong xuôi rồi, anh chị chuẩn bị học lái xe, vợ chồng em sẽ thay phiên nhau ai rảnh thì sẽ tập cho anh chị.

 

Vợ chồng chị Bông nhìn nhau không nói nên lời. Chị Bông rụt rè ái ngại:

 

– Em cho chị suy nghĩ rồi mới quyết định được không?

 

Em dâu thắc mắc:

 

– Anh chị còn suy nghĩ gì nữa? Biết lái xe càng sớm càng tốt.

 

Em trai sốt sắng:

– Anh chị ngại chưa có xe chứ gì, cứ yên tâm tập bằng xe chúng em. Sau khi tập lái xe khá rồi em sẽ đưa anh chị đi mua xe.

 

Chị Bông đành khai:

 

– Thật ra là… là… anh chị đã bàn nhau sẽ mua… một cái xe gắn máy để đi lại cho tiện, anh chị quen lái xe hai bánh mấy chục năm nay, không dám lái xe hơi kềnh càng sợ gây tai nạn thì khổ mình và khổ người ta.

 

Hai vợ chồng em trai cùng giải thích xe hơi là “cái chân” của mọi người ở Mỹ, những xe mô-tô hai bánh người ta chạy chơi thôi. Thời tiết bốn mùa mưa nắng gió lạnh tuyết rơi ai mà đi xe gắn máy như ở Việt Nam cho được.

 

Nghe em giải thích chị Bông thấy mình nhà quê quá. Nhớ hôm xuất cảnh từ Việt Nam sang Mỹ, lần ghé phi trường Nhật Bản chờ chuyến bay chuyển tiếp hai con chị Bông mua hai chai nước ngọt trong máy, chị đã dặn dò hai con uống xong nhớ giữ lại chai không, cho mẹ mang sang Mỹ đựng dầu, dấm hay nước mắm, đỡ tốn tiền mua sắm đồng nào hay đồng ấy. Khi vợ chồng người em ra đón ở phi trường San Antonio Texas việc đầu tiên là em đã vứt mấy cái chai không mà chị Bông cầm lỉnh kỉnh trên tay cho vào thùng rác rồi mới giải thích sau.

 

Thế là anh chị Bông đều học lái xe hơi. Chị Bông thật vất vả với xe, hình như cái làn đường nào cũng chật hẹp, lái xe mà như con lăng quăng bơi ưỡn ẹo trong nước, xe cứ liên tục cán làn bên phải rồi sang làn bên trái. Thi bằng viết thì chỉ cần học thuộc lòng là đậu rồi. Thi lái xe với ông bà “giám khảo” ngồi bên cạnh mới là khó. Chị Bông luôn căng thẳng ghi nhớ chân thắng và chân ga chỉ sợ đạp lộn. Người em kể vài vụ thí sinh thi bằng lái đã đạp lộn chân ga thay vì chân thắng gây ra tai nạn chết người.

 

 

Sau hai lần thi rớt may quá chưa quá tam ba bận chị Bông cũng đã đậu bằng lái xe như anh Bông đã đậu, hai vợ chồng đều phấn khởi lên tinh thần. Có lần ngồi xe với người em trên highway anh chị Bông thấy hai chàng Mỹ chở nhau trên cái xe motorcycle to kềnh chạy bạt mạng như ma đuổi mà hết hồn và biết rằng lái xe hơi bốn bánh coi vậy mà dễ hơn, an toàn hơn xe hai bánh kiểu này.

 

Em trai đọc báo tìm mua cho anh chị Bông mua một chiếc xe hơi cũ hiệu Honda Civic giá 1,700 đồng đã chạy hơn một trăm ngàn mile mà xe Nhật thì rất bền có thể đi tới hai trăm ngàn mile. Cái xe là cả gia tài của anh chị Bông. Đêm đầu tiên mang xe về nhà, xe đậu ngoài sân vì trong garage đã có hai xe của vợ chồng người em, chị Bông đi ngủ mà lòng thấp thỏm lo âu, chị thì thầm dặn dò chồng:

 

– Em sợ mất xe quá. Thỉnh thoảng anh có tỉnh giấc thì ra ngoài sân bật đèn lên để nếu có kẻ cắp rình mò chúng sẽ không dám.

 

Canh được mấy ngày thấy không có dấu hiệu kẻ gian rình mò trộm cắp anh chị Bông mới ngủ yên giấc. Nước Mỹ đáng yêu thật, cả một đống của cải của vợ chồng chị để khơi khơi ngoài sân mà không hề mất mát hay sứt mẻ gì.

 

Anh chị Bông khi xưa ở Việt Nam đã từng yêu thích nước Mỹ nay thêm ngưỡng mộ nước Mỹ từ điều thực tế nhỏ nhặt này và từng ngày thích thú với cuộc sống ở Mỹ. Hai vợ chồng muốn khoe nước Mỹ nhân thể khoe luôn chiếc xe hơi mới tậu với mấy đứa em ở Việt Nam. Hai vợ chồng diện quần áo đẹp đứng bên chiếc xe để chụp hình, chụp trước cửa nhà em trai vài kiểu xong chị Bông lại thay váy áo khác và khoác chiếc áo lông xù lên vai cho sang dù trời đang mùa hè 90 mấy độ. Rồi lái xe ra phố chọn ngoại cảnh mấy tòa nhà cao tầng sang trọng đẹp đẽ có lá cờ Mỹ đang tung bay trong gió để làm nền chụp thêm mấy hình nữa. Chị Bông chọn vài hình ưng ý nhất gởi về cho các em. Cô em dâu út người miền Nam chân chất thật thà chịu tốn tiền gọi điện thoại sang khen:

 

– Chị Bông ơi, hình ảnh đường phố Mỹ đẹp quá, chị mặc nhiều đồ sang trọng bên chiếc xe hơi cũng sang trọng quá, em mang ra khoe bà bún riêu coi bà khen nức nở, không ngờ mới sang Mỹ mà anh chị đã lên đời.

 

– Bà bún riêu gánh hàng rong hay đi qua nhà mình mỗi buổi trưa đó hả em?

 

– Thì bả đó. Bà còn kể chị vẫn ăn bún riêu mỗi ngày một tô, hôm nào hàng bà ế chuyến chót về ngang nhà chị ăn ủng hộ thêm tô nữa cho sạch nồi. Bà bún riêu than là giờ đây chị Bông ở Mỹ chắc gì nhớ tới món bún riêu rẻ tiền của bà.

 

Bà bún riêu và em dâu có đi xe hơi bao giờ đâu mà biết chiếc xe của chị Bông là xe đời cũ chẳng biết đã qua mấy đời chủ mới đến tay vợ chồng chị, những váy áo chị Bông mặc chụp hình mà em dâu khen sang đẹp toàn là đồ cũ xin ở các hội từ thiện chị chất đầy trong tủ áo và món bún riêu thì chị Bông vẫn thèm ăn đời nào quên được mùi riêu cua, mùi rau kinh giới, tía tô…

 

Để kiếm thêm tiền trong thời gian ăn tiền trợ cấp chị Bông xin vào làm việc vặt part-time trong một nhà hàng Tàu với điều kiện trả tiền mặt. Chị ngồi nhặt rau chưa xong thì thấy rổ cà rốt to lù lù đợi sẵn bên cạnh, gọt vỏ cà rốt chưa xong đã biết trước nhiệm vụ sẽ đứng cuốn hàng mấy trăm cái chả giò, không giây phút nào hở tay, chủ nhà hàng bóc lột tận tình, không uổng phí họ đã trả cho chị 4 đô la một giờ.

 

Làm việc cực nhọc nhưng anh chị Bông không bao giờ bỏ buổi học ESL nào, vui thích là khác vì ở đó anh chị gặp những đồng hương Việt Nam mới qua Mỹ như mình cùng hoàn cảnh nên dễ thân dễ gần.

 

Một hôm chị Bông long trọng tuyên bố với chồng:

 

– Bao giờ ăn hết tiền trợ cấp chúng ta sẽ đi… đánh cá ở Alaska.

 

Anh Bông ngạc nhiên hỏi lại:

 

– Chúng ta là anh và em hả? Sẽ đi đánh cá Alaska hả? Cái tiểu bang lạnh lẽo xa xôi mãi tận… đâu đâu ấy hả?

 

Chị Bông hớn hở:

 

– Đúng thế. Chị Tư vợ anh Hùng học cùng lớp ESL với chúng mình kể anh Hùng có thằng cháu đang làm cá trên tàu ở Alaska, có thể anh Hùng sẽ đi làm cá với nó. Nghe đồn là mỗi tháng kiếm sáu ngàn đô la, làm theo mùa, sáu tháng làm sáu tháng nghỉ đông lên bờ ăn tiền thất nghiệp. Sướng chưa?

 

Anh Bông chưa kịp trả lời gì chị Bông hào hứng thêm:

 

– Hai vợ chồng cùng làm chẳng mấy chốc chúng ta sẽ giàu có. Chúng ta sẽ lênh đênh trên tàu 6 tháng trời vừa làm việc vừa tha hồ ngắm biển xanh khi nắng lên chiều xuống và ngắm trăng sao khi đêm về. Coi như chúng ta sẽ có những chuyến hải hành tuyệt vời.

 

–  Trời, em nghĩ đâu ra cảnh đi làm cá trên tàu thơ mộng vậy? Ai trả cho em sáu ngàn đô la một tháng để em ngắm biển và trăng sao?

 

Chợt anh Bông reo lên:

– Anh cũng nghe đồn là chợ trời dễ kiếm sống và là nơi khởi nghiệp của những người mới đến Mỹ như chúng mình, đã có những triệu phú người Việt xuất thân từ chợ trời đó em, là một anh bán đồng hồ cũ hay một chị an phận bày bán mấy lọ nước hoa vớ vẩn mà nên cơ nghiệp lẫy lừng. Hay là em ra chợ trời chiên chả giò bán, biết đâu sẽ thành… triệu phú, thành “Nữ Hoàng… chả giò”.

 

Chị Bông sung sướng về hùa với chồng:

 

– Quả thật đất Mỹ nhiều cơ hội làm giàu quá em hoa cả mắt không biết nên chọn cái nào đây?

 

Hôm sau đến lớp ESL anh Bông lân la trò chuyện với anh Hùng để tìm hiểu thêm về vụ đi biển Alaska đánh cá vì anh chưa tin câu chuyện giữa hai người đàn bà. Anh Hùng nói công việc đánh cá này cần đàn ông thanh niên khỏe mạnh, làm việc bất kể ngày đêm, chịu đựng giá lạnh và làm việc quần quật trên tàu. Cỡ chị Bông lên tàu một cơn sóng to gió lớn là phải đi cấp cứu rồi. Còn lương sáu ngàn đô một tháng anh Hùng không bảo đảm vì chưa kiểm chứng được.

 

Giấc mộng làm giàu Alaska không thành, giấc mộng chợ trời, con đường từ cơ hàn đến vinh quang cũng xẹp theo, vợ chồng chị Bông trở về thực tế không đi tìm việc lương cao kiểu nghe đồn nữa. Hai vợ chồng cùng xin vào trường Votech học nghề, chị Bông học lớp Nursing Assistant  anh Bông học nghề plumbing.

 

Nghề Nurse aide của chị Bông tìm việc trong các nursing home dễ dàng, chị  chăm sóc những ông già bà cả trong đấy. Anh Bông thì xin được việc làm trong khách sạn sửa chữa ống nước. Thế là hai vợ chồng đều có công ăn việc làm đồng lương không cao nhưng ổn định vững vàng.

 

*

 

Bao nhiêu năm ở Mỹ chị Bông vẫn không quên những kỷ niệm ngu ngơ, những ước mơ đầy hào hứng của mình khi mới đặt chân đến Mỹ. Đất nước này đã cho bao người những giấc mơ thành sự thật nếu người ta biết cố gắng, sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn và chăm chỉ làm việc.

 

Cám ơn nước Mỹ đã cho gia đình chị Bông cơ hội sống và làm việc để có cuộc sống tốt đẹp như hôm nay. Nước Mỹ thật đáng yêu.

 

Ngày nay nhiều lần bạn bè người Việt ở Mỹ rủ chị Bông đi du lịch đó đây nào Âu Châu cảnh đẹp như thơ, nào Á Châu với Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc để ngắm hoa đào, viếng cảnh núi non hùng vĩ hay mấy xứ Ả Rập để… cưỡi lạc đà trên sa mạc, để thăm những địa danh nổi tiếng.

 

Nước Mỹ có 50 tiểu bang với biết bao cảnh lạ, mỗi tiểu bang mỗi phong cách đặc thù địa hình nhà cửa, danh lam thắng cảnh khác nhau. Người khắp nơi trên thế giới còn đến Mỹ du lịch thì chị Bông chẳng cần đi mãi nơi đâu, chị Bông yêu mến nước Mỹ, ước mơ đi du ngoạn khắp nước Mỹ mà cả đời cũng không đi hết 50 tiểu bang thì chuyện đi du lịch ngoài nước Mỹ chắc phải hẹn vài kiếp sau.

 

– Nguyễn Thị Thanh Dương

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.