Hôm nay,  

Gửi chị hàng xóm cũ

11/07/202221:13:00(Xem: 3651)

Truyện ngắn


alley-in-saigon


Năm tôi học lớp 12, con nhỏ xinh nhất lớp đi lấy chồng, mời gần cả lớp đi dự. Lần đầu tiên trong đời được đi ăn cưới với tư cách đã trưởng thành (tuổi 18, chớ không phải đi ăn theo bà con họ hàng chòm xóm), tôi và nhỏ bạn thân bàn tính, phải ăn diện trang điểm cho thật đẹp, nhưng ở tuổi đó, vào thời đó, hai đứa chẳng có một bộ đồ “make-up” nào. Hơn nữa, mấy anh chị lớn trong nhà tôi không đồng ý chuyện điểm phấn tô son ở tuổi học trò. Chúng tôi vẫn nhất quyết muốn được làm đẹp, bèn nhớ ra chị Hà trong xóm. Chị lớn hơn tôi 7, 8 tuổi, thuộc thế hệ mấy ông anh tôi, nhưng chị là “thần tượng” của tôi vì chị thông minh, xinh đẹp với dáng người cao ráo, nước da trắng và nụ cười duyên dáng hớp hồn bao chàng trai cùng xóm và khác xóm.

 

Cửa sau nhà tôi đối diện cửa sau nhà chị. Má tôi và má chị từng quen biết thân thiết, sau khi má tôi mất thì má chị hay qua nhà tôi mỗi khi có chuyện trọng đại như giỗ quảy, cưới hỏi, coi như thay mặt cho má tôi, nên tôi với chị cũng là chỗ “người nhà”. Thế là chúng tôi đến nhờ chị bí mật trang điểm cho hai đứa, tụi tôi mặc quần áo sẵn sàng, ghé qua nhà chị, trang điểm xong là đi thẳng đến đám cưới.

 

Chị la oai oái:

 

– Thôi, thôi! Anh chị nhà em đã cấm, sao chị dám làm chớ, mặc dù chị không tiếc chuyện trang điểm cho tụi em.

 

Tụi tôi năn nỉ:

 

– Chị làm ơn giúp tụi em! Đây là lần đầu tiên tụi em được làm người lớn, đám cưới này có bạn bè và nhiều người khác bên đàng chú rể, tui em nhất định phải… đẹp!

 

– Nói thiệt, chị thấy tụi bay tuổi mới lớn, má đỏ môi hồng tự nhiên, mắt sáng da căng quá đáng yêu, cần gì trang điểm nữa! Mà thôi, chị sẽ đánh chút phấn thơm và thoa chút son, nha!

 

Chúng tôi đành chấp nhận, dù sao có vẫn còn hơn không. Nhà chị có người nhà bên Mỹ gửi quà về, nên chắc chắn đồ trang điểm của chị thuộc loại “xịn”. Nhưng sau khi xong xuôi, chúng tôi nhìn vào gương vẫn không hài lòng, không thấy mình… lộng lẫy thêm tí nào. Hai đứa rủ nhau về nhà nhỏ bạn, mượn hộp trang điểm của chị dâu của nó, trét son lên môi đỏ chót, dặm mí mắt xanh lè, rồi tự tin mình đã “rực rỡ”, kêu xích lô đến tiệc cưới. Tưởng mọi chuyện êm xuôi, nhưng sau đó vài hôm, chị Hà gặp tôi, phàn nàn:

 

– Sao tụi em cãi lời chị, tô son kẻ mắt như bà đồng bóng, mất hết vẻ đẹp ngây thơ của tuổi học trò, bà chị của em mắng vốn chị kìa!

 

– Ủa, sao chị em biết chớ, trước khi về nhà đêm đó, tụi em đã xoá sạch hết màu son màu mắt mà?

 

– Làm sao chị biết được! Tụi bay làm mất uy tín của chị rồi!

 

Dĩ nhiên là tôi bị bà chị Cả và ông anh thứ tư (khó tính nhất nhà) mắng cho một trận nhớ đời. Sau lần đó, tôi đâu dám gặp chị vì biết chị còn giận, ai ngờ số phận đẩy đưa (chắc là mắc nợ nhau), vài năm sau đó, tôi và chị lại tái hợp trong một chuyến vượt biên.

 

Tờ mờ sáng hôm đó, hai chị em tỉnh dậy, (tối qua tôi đã qua nhà chị ngủ để sáng ra bến xe đi Miền Tây). Xuống dưới nhà, ba mẹ chị thắp nến bàn thờ Chúa, bốn người đọc 10 kinh, rồi mẹ chị gói hai gói xôi cho chúng tôi để vào giỏ hành lý. Chị hỏi tôi:

 

– Xuất phát cửa trước hay cửa sau đây?

 

– Cửa sau đi chị! Cửa trước sợ gặp mấy hàng xóm đi làm sớm, nhứt là chú Tư chạy xe ba gác!

 

Hai chị em bèn đi cửa sau, vừa bước ra gặp bên hông Chùa, tiếng mõ dìu dặt nhịp nhàng của buổi công phu sớm làm lòng tôi xao xuyến:

 

– Chị Hà ơi, nghe tiếng chuông chùa, tiếng mõ thân quen, em bước đi hổng đặng!

 

– Trời ơi! Nhà ngươi làm ơn bỏ cái tính cải lương sến sẩm, ưa mủi lòng đó được không? Cái miệng ăn mắm ăn muối nói tào lao, chưa ra bến xe đã chùn chân rồi!

 

– Úi, em xin lỗi chị! Nhưng lần sau tụi mình nên xuất phát cửa trước.

 

Chị đánh vào vai tôi thiệt mạnh:

 

– Lại nói bậy nữa rồi! Lần sau là sao? Bữa nay đi là đi luôn chớ!

 

– Dạ em xin chừa, từ giờ phút này hổng dám mở miệng nói gì nữa!

 

– Mà lỡ rồi, chị nói luôn nà, đi cửa trước sẽ qua nhà thờ, lại có tiếng chuông kêu Lễ sớm, mày lại xuyến xao bịn rịn, tốt nhứt là có cánh bay thẳng tới bến xe.

 

Hai chị em nhìn nhau cười mỉm chi. Vừa quẹo ra khỏi xóm Chùa ra đường cái, xung quanh các ngôi nhà vẫn ngủ im lìm trong bóng tối của trời nửa đêm về sáng, bỗng chị níu tôi lại:

 

– Ê, hình như ở phía xa có xe ba gác của chú Tư, mà còn có cả thím Tư ở trên xe nữa kìa, tính sao đây?

 

– Không xong rồi chị ơi! Thím Tư được xóm mình gọi là Thím “Tám” là chị đủ biết rồi đó! Vào đây núp đi chị!

 

Hai chị em tạt vào chiếc cổng của căn nhà bên đường, nép bên cột hàng rào. Tự dưng tôi rùng mình, nhìn lên cây dừa cao vút nơi góc sân căn nhà, run rẩy thì thầm:

 

– Chị Hà ơi… em… sợ… quá!

 

Chị cũng hoảng hốt:

 

– Vụ gì nữa đây?

 

Tôi chỉ cây dừa:

 

– Chị hổng nhớ gì sao!!

 

Tôi vừa dứt câu, chị cũng run lẩy bẩy. Căn nhà này, mới tuần trước, gia chủ có đám cưới, anh con trai trèo lên cây dừa hái lá để làm rạp cưới cho em gái, nhằm ngày trời mưa mới tạnh, dây điện giăng ngang cây dừa bị chập điên, anh ấy bị điện giựt nằm vắt vẻo đen thui trên ngọn dừa, cả xóm không ai dám nhìn, vậy mà khuya nay chúng tôi đang đứng dưới cây dừa, hỏi sao không toát mồ hôi hột? Chị Hà kéo tôi đi như chạy:

 

– Bây giờ có gặp mười thím “Tám” cũng chịu luôn em ơi!

 

Hai chị em vừa chạy, tuy sợ ma nhưng lại cười suốt cả đoạn đường cho đến lúc bắt được xe ra Xa Cảng thẳng tiến Cần Thơ. Chúng tôi ở Cần Thơ và Long Xuyên mỗi nơi vài ngày rồi đón xe lôi đến Sóc Trăng.

 

Đêm chờ ghe nhỏ tại ven sông Sóc Trăng, hai chị em thao thức, không ngủ được. Tôi hỏi:

 

– Tụi mình đi bất ngờ, chắc chị chưa có dịp chia tay chàng bác sĩ của chị ha?

 

– Ừa, chiều nhận tin là tối gói hành lý liền, đâu kịp gặp ai, nhưng chị có viết mấy lời, khi nào ảnh tới nhà thì má chị sẽ đưa.

 

– Chị nói gì ở trỏng?

 

– Chị ghi gọn gàng lắm: Anh Giao, em đi vượt biên, anh đừng chờ đợi!

 

– Trời, sao mà phũ phàng còn hơn Lan cắt dây chuông không cho Điệp vào thăm vậy trời!!

 

– Thì mình đi rồi, phải cho người ta tự do chớ! Còn em, có nhắn gì cho ai không?

 

– Dạ, em cũng chẳng kịp có thời gian suy nghĩ, không biết nên nhắn… cho ai!

 

Mà miệng tôi “ăn mắm ăn muối”thiệt, nói xui nói xẻo khi vừa bắt đầu, nên qua ngày hôm sau chúng tôi lại khăn gói trở về thành phố.

 

Chàng bác sĩ biết nỗi “đam mê” của chị nên hơn một năm sau, hai anh chị lên đường qua Cambodia rồi lên tàu vượt biển qua Thailand. Một năm sau tôi cũng đi theo, nhưng đến trại thì anh chị đã đi định cư, mãi hơn 20 năm sau hai chị em mới được tái ngộ tại Nam California.

 

Hôm nay tôi viết lại kỷ niệm này, mong chị đọc được, coi như tôi chuộc lại lỗi lầm cho lần… lỡ dại “điệu đà tuổi 18” và cái miệng “mắm muối” thuở nào!

 

Kim Loan

(Edmonton, cuối tháng 3/2022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.