Hôm nay,  

Tản mạn Xóm Chùa

10/08/202209:27:00(Xem: 4120)

Tản mạn

IMG_3372-copy-blog

 

1. TU LÀ CÕI PHÚC

 

Nhà tôi có một quán nước ở mặt đường, và căn nhà trong hẻm, nằm giữa Xóm Chùa và Xóm Đạo, gần chợ Đồng Tâm. Năm ấy, ở xóm trên có một gia đình, vợ vừa mất, chồng đi bước nữa, có đứa con gái chừng 9-10 tuổi, được nhà người bác ruột đem về nuôi, rồi sau đó nghĩ sao, đem nó vào gửi trong Chùa, hy vọng nó sẽ có đường tu, tránh xa khổ ải trần đời. Rồi nó được cạo đầu, chừa 3 chỏm tóc, mặc áo nâu, có tên pháp danh là Diệu Vinh, xóm chúng tôi cứ gọi nó là Tiểu Vinh.

 

Cô (tiểu) Vinh này thiệt là lí lắc và sôi động. Không biết thời khoá biểu trong chùa của tiểu ra sao, mà hầu như cả ngày tôi thấy tiểu ở ngoài đường, lúc thì nhí nhố đi học với lũ trẻ trong xóm, lúc thì chơi nhảy dây, chơi tạt lon….Cái tà áo nâu của nhà Chùa chưa bao giờ làm tiểu vướng bận, khi chơi bịt mắt bắt dê, tiểu cột hai tà áo lại trước bụng cho chặt để tha hồ chạy nhảy. Chơi tạt lon, tiểu xắn quần lên tận đùi, và khi chơi nhảy dây, mái tóc “ba vá” của tiểu cứ lắc lư theo cái đầu và đôi mắt lanh lợi, láo liên của tiểu thật dễ thương. Cho nên màu da của TiểuVinh ngày càng ngăm ngăm, rám nắng, với hàm răng trắng tươi có chiếc răng khểnh lồ lộ, chưa kể cái miệng nói “không lành da non” của tiểu làm ríu rít, ồn ào bất cứ nơi đâu tiểu có mặt. Không biết nó tu tập tới đâu, mà nghe trẻ con trong xóm kể rằng, hầu như ngày nào tiểu cũng bị Sư Bà phạt quỳ nhang (tức là quỳ trước chánh điện, cho đến khi cây nhang tàn thì thôi). Quỳ đau gối, tiểu khóc nức nở, nhưng ngày mai đâu lại vào đấy, vẫn mải chơi say mê, quên cả lời Sư Bà dặn dò.

 

Một sáng chúa nhật, tôi thấy tiểu tung tăng hớn hở đi từ phía chợ về xóm, trên tay lủng lẳng con khô lóc, tôi chạy lại hỏi:

 

– Tiểu Vinh ơi, đi tu Chùa đâu được ăn thịt cá!

 

Tiểu trả lời ngon ơ:

 

– Dạ tiểu biết, mà lâu quá hổng ăn nên thèm quá, bữa nay ghé nhà bác cho tiền, tiểu muốn ăn miếng cá khô chiên.

 

Chẳng biết hôm đó tiểu có được ăn cá hay bị quỳ nhang gì không, chỉ biết một thời gian sau, gia đình người bác đến xin Chùa được mang tiểu về nhà, hoàn tục, trở về cuộc sống đời thường.

Thế là từ đó, Tiểu Diệu Vinh, hay đúng hơn là cô bé Trần Hoa Hồng, mặc chiếc áo đầm xanh, cột tóc đuôi gà, đeo cặp táp, tươi tắn bước chân sáo với đám bạn trên đường đi học, nhăn mặt ăn cóc ngâm hay xuýt xoa nhai khô bò, toác miệng cười, mới chính là hình ảnh của một cô bé, đang sống đúng với tuổi thơ của mình.

 

Dẫu biết rằng “Tu là cõi phúc”!

 

2. TÌNH LÀ DÂY OAN

 

Thực ra, trước khi tiểu Vinh có mặt, thì ngôi Chùa không phải lúc nào cũng êm ả như dòng sông, mà có lúc, bỗng nổi sóng ba đào.

Chùa chỉ có hai người, là Sư Bà Đàm Nhung và Sư Cô Diệu Huyền. Cô Huyền cũng được gia đình, là dân ở xóm bên, đưa đến Chùa tu lúc bé xíu. Khi tôi lớn lên thì Sư Cô Huyền là một Sư Cô xinh đẹp, nhan sắc nổi bật dù khoác áo chàm, đâu đội khăn tu. Khuôn mặt trái soan, nước da trắng, đôi mắt đen hình hạt dẻ, lông mày đậm trên sóng mũi cao thanh tú, cùng nụ cười duyên và giọng nói ngọt ngào thánh thót, làm bất cứ người đối diện nào cũng đem lòng cảm mến.

 

Người ta nói, thanh niên xóm chợ và xóm chùa, thường không phải…dạng vừa. Xóm tôi, vừa là Xóm Chợ vừa là Xóm Chùa nữa cơ, nên có đám thanh niên rảnh rỗi, làm ít chơi nhiều, thường hay tụ tập ngay gò mả cạnh Chùa, đờn ca hát xướng, ăn nhậu và chọc ghẹo những thiếu nữ nào đi ngang qua khu này. Nhiều buổi tối đi học thêm về, chạy xe vào đầu ngõ Chùa, tôi cũng bị mấy anh thả lời đùa giỡn là chuyện bình thường, nhưng với Sư cô Huyền, mấy ảnh cũng…không tha. Hễ thấy bóng cô, là các anh trổ tài hát nhạc bolero (có sửa chút lời) đoại loại như:

 

 “ Em tôi xinh đẹp hơn người tưởng, không áo xanh áo đỏ thơm hương, nhưng khi vườn Chùa lá thu rơi, ôi dịu dàng đôi mắt em tôi …”

 

 Có khi còn cao hứng lên sáu câu vọng cổ tha thiết chuyện tình Lan và Điệp:

 

 “Sao em nỡ cắt dây chuông, để anh mang một nỗi buồn thiên thu?”…

 

Lần nào sư cô cũng nhẹ nhàng mỉm cười, bởi dù sao cũng toàn là người cùng xóm, chớ có xa lạ gì đâu nà. Thành ra mỗi khi Chùa có dịp lễ lớn như Tết nhứt, Vu Lan, Phật Đản là bà con thấy mấy anh có chút máu giang hồ, “phá làng phá xóm” đó hì hục dọn dẹp sân Chùa, cắt cỏ, quét lá, tưới cây dưới sự chỉ đạo của Sư cô Huyền. Trời nắng chang chang, mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt, và đôi má ửng hồng của Sư Cô thiệt là duyên dáng. Còn mấy anh, thì khỏi nói, lao động hăng say, chạy qua chạy lại như con thoi, có nụ cười của Sư cô thì…hổng biết mệt là gì hết á! (Bởi ta nói, dù ở bất cứ nơi đâu, ngoài xã hội, công sở, xưởng thợ, hay ngay chốn cửa Phật này, có chút nhan sắc là khác liền hà!)

 

Một buổi tối, khi cả xóm đang chuẩn bị đi ngủ, thì nghe bên Chùa có tiếng la mắng rất lớn của Sư Bà, kèm theo tiếng khóc thút thít của Sư Cô sau mỗi làn roi đánh của Sư Bà. Tôi cũng nhanh chân hoà nhập vào nhóm người có mặt ngay cánh cổng sắt của Chùa, dòm qua khe hở, thấy xa xa, Sư Cô quỳ chắp tay van xin, trả lời lí nhí những câu chất vấn của Sư Bà:

 

– Tại sao xài kem Hoa Lan?

 

– Dạ… dạ…

 

– Tu hành không cần làm đẹp, nghe chưa? Mà muốn dưỡng da, sao không xin tiền nhà Chùa đi mua mà lấy của người ta! Ai cho?!

 

Bên ngoài, nghe câu được câu không, chỉ nghe rõ tiếng khóc của Sư Cô và giọng hét như lệnh vỡ của Sư Bà. Không cần chờ đợi lâu, một chị lớn tuổi đã giải toả thắc mắc của đám đông tò mò:

 

– Biết ai tặng mấy hộp kem Hoa Lan cho cô Huyền không? Hùng Đại Ca đó!

 

Thì ra là Hùng Đại Ca, nhà ngay sát bên hông Chùa. Sau năm 1975, gia đình Hùng đi vùng kinh tế mới, còn anh gia nhập Thanh Niên Xung Phong theo lời kêu gọi đi tìm “lý tưởng” của ông Võ Văn Kiệt. Chẳng bao lâu, gia đình anh bồng bế nhau trở lại vì chẳng thấy “có sức người sỏi đá cũng thành cơm” gì ráo, mà ba anh còn để lại xác thân nơi đồng khô cỏ cháy. Anh cũng bỏ Thanh Niên Xung Phong về nhà, làm nghề “mánh mung chợ trời”, hay theo như lý lịch ngoài phường ghi là “nghề nghiệp không ổn định”. Chiều tối thì tụ tập đám thanh niên trong xóm ngồi đàn ca giải sầu. Công bằng mà nói, Hùng Đại Ca không phải là người xấu. Ở đâu không biết, chớ ở cái xóm Chùa này, anh sống có tình, hành động nghĩa hiệp, giúp đỡ hàng xóm khi có ai cần nhờ vả những chuyện tay chân đàn ông. Có lần tôi đi học về khuya, ngang qua “ban nhạc” của anh, bị mấy thanh niên trêu ghẹo, tôi vừa bối rối vừa run, làm rớt chiếc kẹp tóc. Sáng hôm sau, anh sai người mang đến tận quán nước nhà tôi trả lại. Hùng, chàng Đại Ca vì thời cuộc, Lục Vân Tiên không gặp thời, và trận đòn của Sư cô Huyền tối nay, cho chúng tôi biết thêm, anh còn là chàng lãng tử, lãng mạn…không đúng chỗ.

 

Sau đêm đó, cư dân Xóm Chùa đợi chờ ngày Cô Huyền khăn gói ra khỏi Chùa, về đời thường trần tục, nhưng chỉ thấy Sư Cô vẫn đều đặn đạp xe đi tu học hàng ngày trên Chùa Vĩnh Nghiêm, rồi về Chùa sinh hoạt kinh kệ, gõ mõ, thỉnh chuông đều đặn. Chỉ có điều, Hùng Đại Ca bỏ đi biệt xứ, nghe đâu lên tận Bảo Lộc trồng cà phê phụ giúp người quen.

 

Giờ đây, ở tuổi vừa qua 60, Sư Cô Huyền đang là trụ trì của Chùa, sau khi Sư Bà qua đời. Vậy là Cô Huyền có căn tu, dù trên con đường ấy, có lần Cô thoáng chút vấn vương nhẹ nhàng với luyến ái. Và như cơn gió chợt đến rồi đi, Sư Cô đã vượt qua được cái quyến rũ phù du của “Tình Là Giây Oan”

 

Kim Loan

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.