Hôm nay,  

Nhớ… từ một lần coi phim

15/08/202220:23:00(Xem: 5433)

Tùy bút

vobidalat

 

Sau cuộc tấn công đợt 2 Mậu Thân của Việt Cộng, nhà tôi cháy rụi. Khi lên Đà Lạt học, tôi xin tá túc ở nhà cô tôi ở cuối đường Phan Đình Phùng. Mỗi chúa nhật, tôi và người em họ ra phố đều nhìn thấy những hình ảnh oai hùng và đẹp mắt: sinh viên sĩ quan (SVSQ) trường Võ Bị Quốc gia Việt Nam và trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị đi phố cuối tuần!

 

Thỉnh thoảng tôi cũng gặp người cháu gọi bằng cậu đang học khóa 25 trường Võ Bị ghé thăm. Cháu lớn tuổi hơn tôi, con đời trước của chồng người chị cô cậu nhưng xưng hô với mọi người trong gia đình tôi như các cháu con đời sau của anh chị. Khi lên học Đà Lạt ghé thăm cô dượng tôi cũng xưng hô với cô dượng bằng ông bà, các em tôi bằng cậu dì, như ruột thịt.

Nhân coi lại phim The Longest Day (Le jour le plus long), đến đoạn người con trai tướng Eisenhower xin ra chiến trường sau khi trị thương ổn định, chỉ huy của anh ta không bằng lòng vì chưa thể chiến đấu như người bình thường được. Vợ tôi bảo: Đâu phải con ông Tướng muốn gì cũng được! (dầu là muốn đi chiến đấu) trong khi ở Việt Nam thì…

Chuyện lan man với vợ làm tôi liên tưởng đến người cháu dễ thương đã quá cố này, đến những kỷ niệm với cháu hơn 45 năm trước ở Đà Lạt. Sáng nay, lại đọc trên BM blog bài viết “Chuyện ở Học viện Quân sự West Point”. Rất thú vị và điều này thúc đẩy tôi viết lại vài hàng những kỷ niệm với cháu và những điều tôi biết về trường.

 

Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam nhận sinh viên đã có bằng tú tài II, trúng tuyển sau khi thi đậu vào trường, có thời kỳ phải vượt qua cả kỳ thi vấn đáp. Khóa sinh được gửi học ở quân trường Quang Trung Sài Gòn 3 tháng để tiếp thu phần huấn luyện cơ bản. Quang Trung là TTHL cho tất cả những người lính bình thường!

 

“Sau khi xong ở Quang Trung, bọn cháu (khóa 25) được xe đón về trường ở Đà Lạt để học chính thức. Khi xe vào đến cổng trường, một lễ đón tiếp tân khóa sinh diễn ra long trọng, có cả quân nhạc oai hùng, ai cũng rơm rớm nước mắt, cứ như tổ quốc đã giao vận mạng đất nước vào tay mình nhưng khi vượt qua bảng ghi khẩu hiệu “Tự thắng để chỉ huy” trước cổng, lệnh từ chỉ huy ban xuống: “Vất ba lô, tất cả chạy quanh vũ đình trường ba vòng!”. Ba vòng vũ đình trường là 3 cây số! Và từ đó, bắt đầu thời kỳ “huấn nhục” diễn ra trong 56 ngày với những thử thách cực kỳ cam go mà nếu không dốc lòng chắc khó mà tồn tại. Cháu kể cho tôi nghe những ngày mới về trường như thế. Có lần, cháu ghé thăm, khi tôi lấy xe đưa về, cháu giành chạy xe, tôi bảo, đường lạ để mình chạy, cháu bảo SVSQ Võ bị không để người khác chở trừ phi là những người cùng trường. SVSQ cũng không được đi xe lam, không được ngồi quán cóc, không ăn uống ở lề đường, ở các quán xá bình dân mà phải vào nhà hàng, tiệm ăn sang trọng. Đó là tinh thần “Tự thắng để chỉ huy”, tôi nghe mà ngạc nhiên pha lẫn thích thú.

 

Mỗi cuối tuần, phố phường Đà Lạt bỗng đẹp thêm và sang trọng nhất là khu Hòa Bình nhờ có các SVSQ vừa VBQG vừa CTCT đi phép. Nghe kể mỗi sinh viên đều có bốn bộ complet là lễ phục gồm 2 bộ tiểu lễ và 2 bộ đại lễ, hai cho mùa đông và hai cho mùa hè. Chỉ đến khi SV xong thời kỳ huấn nhục, được “gắn alpha” thì mới được đi phép ra phố với lễ phục, mới “được tôn trọng” như con người, mới được cư xử theo hiến pháp và luật pháp. Còn huấn nhục thì cứ gọi là bị đày đọa đến cùng và bị ít nhiều là tùy hên/xui.

Chuyện bị sĩ quan chỉ huy hay huấn luyện viên phạt là bình thường nhưng việc bị khóa đàn anh phạt mới là cắc cớ, mới là kinh hoàng, là ác mộng, và việc này có thể xãy ra ngay trong tiệm ăn, nhà hàng, giữa khu Hòa Bình Đà Lạt, năm hai phạt năm một, khóa 24 phạt khóa 25 là chuyện thường.

 

Sau Mậu thân, do tình hình an ninh sau biến cố này, các trường khuyến cáo SVSQ không nên đi quá Ngã Ba Chùa trên đường Phan Đình Phùng và Hai Bà Trưng cũng thế. Có lần tôi theo cháu vào thăm trường, cậu cháu vào câu lạc bộ uống café, khi vào nơi này phải đi ngang nhà ăn, ở đó treo tại các vị trí trang trọng ảnh của các khóa sinh từ khóa I là những vị tướng nổi tiếng và đang tại nhiệm của quân lực VNCH. Cũng ở nhà ăn, cháu kể khi ngồi vào bàn ăn, từ động tác bưng chén cơm, đưa vào miệng đến đặt lại xuống bàn đều phải theo hình thể hình học và theo các phương vuông góc với nhau. Không hiểu người ta thực hiện việc này nhằm mục đích gì nhưng nghe kể thật là thú vị và điều này giúp người nghe hình dung được hình ảnh người sĩ quan quân lực VNCH mang lon thiếu úy khi ra trường!

 

Từ ngoài cổng đi vào, ghi nhận đầu tiên và cũng là sự thán phục của tôi là mọi nơi đều sạch sẻ, ngăn nắp, nhà cửa, phòng học, đường đi lối lại được bố trí ngay ngắn, sạch đẹp hơn cả công viên và chắc chắn đây là do bàn tay chăm sóc của khóa sinh (chỉ khi so sánh với hai nơi tôi đã từng biết: Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn ở Ninh Hòa và Trung tâm Huấn luyện Đống Đa ở Phú Bài, Huế).


Cháu cũng được nghe các niên trưởng kể lại rằng đêm trước ngày làm lễ ra trường cho các khóa tốt nghiệp, các SVSQ trực ở Đài Tử Sĩ giữa khuya thường nghe tiếng chào nhau, tiếng chân mang giày đi trận về đi rầm rập nhưng không thấy người, hỏi đơn vị trước đây của nhau của vong hồn các sĩ quan đã tử trận nên ai cũng sợ phải trực ở đó! Không biết thực hư thế nào?

 

Chuyện tôi được nghe kể nhiều, không chỉ riêng từ cháu là nội dung đào tạo và áp lực khi học trong trường. Từ năm 1966, trường VBQGVN thực hiện học trình 4 năm, bằng tốt nghiệp được công nhận có giá trị như bằng cử nhân dân sự nhưng tôi biết, khi ra trường họ là một sĩ quan đa năng đa hiệu, biết lái xe, biết chèo thuyền, biết sữa chữa nhỏ khi xe hay ca nô hỏng hóc, biết nhảy đầm, biết mưu sinh thoát hiểm, biết tổ chức một chương trình văn nghệ hay một đêm vũ hội hóa trang… Điều này làm tôi liên tưởng đến trường Võ bị West Point ở Mỹ và khi tìm hiểu thì đúng là trường học tập mô hình đào tạo của West Point. Mời bạn đọc những trích đoạn này trên BM blog: “Ở Mỹ nghe ai nói tao từng học ở West Point, người ta nhìn mình từ trên xuống dưới, như 1 thực thể lạ, một con người hoàn hảo. Không xếp hạng được vì nó không có thể có tiêu chuẩn để xếp”.
.
“Chương trình học từ thiên văn vũ trụ đến cách bắt tay, cách uống rượu vẫn tỉnh táo, cách gấp mùng mền chiếu gối đến tranh luận các tác phẩm của Victor Hugo. Trên thông thiên văn, dưới tường địa chất, giữa thấu nhân tâm”.

 

“Ở West Point, có một slogan là cứ đưa cho tôi một người không phải tâm thần, tôi đều có thể đào tạo thành 1 công dân ưu tú”.

 

Trích dẫn trên làm tôi liên tưởng tới slogan chữ to đặt ngay trước trường Đào tạo Người nhái ở bán đảo Cam Ranh trước 1975 đại để là: “Việc gì người thường không làm được, người nhái phải làm được!” Tôi không ở gần cháu được lâu vì không còn học ở Đà Lạt năm sau nhưng sau này nghe gia đình kể lại rằng, trước ngày ra trường, người anh em cột chèo với ba cháu là một dân biểu có thế lực ở Sài Gòn có nhã ý đề nghị vận động cháu về làm việc ở Nha Quân pháp bộ Quốc Phòng để khỏi đi chiến đấu nhưng cháu lễ phép cám ơn và từ chối với lý do là không thể phụ lòng tin và mong mỏi của trường. Cả nhà không đồng tình nhưng nễ cháu và không tiếc lời ca ngợi nhà trường.

 

Ra trường, cháu về đơn vị tác chiến của SĐ2 BB (đóng ở Quảng Ngãi mà mùa hè đỏ lửa 1972 cũng đã xãy ra những trân kịch chiến với Bắc quân), đó là điều mà cháu lấy làm tiếc vì khi ghi danh vào các binh chủng lừng danh như Thủy quân luc chiến, Biệt động quân, Nhảy dù… đã có những đồng môn đỗ cao hơn chọn trước và hết chỗ! Khi cuộc chiến kết thúc, cháu đã mang quân hàm đại úy. Đẹp!

 

Sau 1975, khi cháu đi tù về, thỉnh thoảng tôi có gặp đôi lần, vẫn như xưa với nụ cười hiền và mắt sáng khi cười, vẫn lễ phép, nhã nhặn, sau đó lại nghe cháu về Sài Gòn làm việc cho một HTX của bạn cùng khóa, hợp tác xã này ưu tiên và ưu đãi cho tất cả đồng đội ở tù về. Sau này, rất vô tình, tôi lại gặp một cựu sinh viên khóa này ở thị trấn tôi làm việc, vậy là anh ta gọi tôi bằng “cậu” và kể lại câu chuyện trên cùng những chia sẻ về sau khi cháu bệnh ở Sài Gòn rồi qua đời và khóa 25 đã giúp đỡ vợ con cháu như thế nào.

 

Vẫn biết rằng, “La comparaison n’est pas raison” (mọi sự so sánh đều khập khiểng), đem so sánh trường West Point thành lập từ 1802 với trường VBQGVN ra đời ở Đập Đá, Huế năm 1950 (nhưng chỉ với học trình 9 tháng rồi tăng dần lên 4 năm từ năm 1966) là không ổn nhưng tôi nghĩ, sinh viên VBQGVN cũng không khác gì West Point như mô tả dưới đây: “Nhìn các học viên WP đánh đàn, nhảy, khiêu vũ, võ thuật, hát, ảo thuật, thám hiểm, vẽ…hay thậm chí tỉ mỉ ngồi cắt tỉa giấy để rèn luyện đôi tay khéo léo, bạn sẽ thấy mình sẽ phải cố gắng thật nhiều. Một ngày chỉ có 24h, là công bằng cho tất cả mọi người. Chúng ta phải ngủ 6-8 tiếng, ai cũng chỉ còn 16h trong ngày. Nên phải chia ra, làm gì, học gì trong quỹ thời gian ít ỏi đó. Một WPer nếu sáng sớm không nộp được bảng mô tả công việc trong ngày (daily to-do list) cho bạn trưởng nhóm, thì coi như nắm chắc suất cuốn gói về quê”.

 

Với tuổi đời chỉ ¼ thế kỷ, chương trình và nội dung đào tạo lúc đầu theo mô hình Pháp rồi Mỹ nhưng trường đã góp phần không nhỏ cho sự lớn mạnh và làm rạng danh quân lực Việt Nam Cộng Hòa với những chiến công lẫy lừng của những sĩ quan đã từ đó ra đi, đã làm những cố vấn Mỹ và sĩ quan đồng minh chiến đấu chung chiến hào không tiếc lời ca ngợi và cả người của “bên thắng cuộc”. . . sau khi chiến tranh chấm dứt vẫn còn nễ phục kể cả khi họ chỉ là một tù nhân đang bị đày đọa trong các trại tù.

 

Nguyễn Hoàng Quý

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.