Hôm nay,  

Banff, bao giờ hết tương tư

09/09/202221:05:00(Xem: 3668)



IMG_3173

“Banff là một thị xã tại Alberta, Canada, là trung tâm của vườn quốc gia thuộc di sản thế giới. Với diện tích 4,88 km2, dân số 7584 người, và độ cao 1463m, Banff cách Calgary, một thành phố lớn của Alberta  126 km và cách 58 km phía đông Lake Louise. Banff nổi tiếng là địa điểm nghỉ mát và một trong những nơi du lịch phổ biến nhất của Canada, với môi trường xung quanh núi và suối nước nóng. Banff cũng là điểm đến cho các môn thể thao ngoài trời và đi bộ đường dài, đi xe đạp, trượt tuyết, cưỡi ngựa ...”

 

Đó là vài hàng sơ lược về Banff tóm gọn từ Google, còn phố núi Banff của riêng tôi thì đặc biệt hơn nhiều, bởi nó gợi cho tôi những câu hát trữ tình từ Thành Phố Buồn của Lam Phương và Còn Chút Gì Để Nhớ của Phạm Duy phổ thơ Vũ Hữu Định. Thật vậy, phố núi bé nhỏ, có downtown nằm trên con đường chính Banff Ave, bao quanh bởi núi đồi chập chùng, du khách đi loanh quanh khắp các con ngõ không bao giờ bị lạc đường bởi vì “đi dăm phút đã về chốn cũ”.

Bé nhỏ là thế, mà nơi đây có đến ba ngôi nhà thờ, trong đó là một nhà thờ Catholic. Phố bé, nhà thờ xinh xinh, bên dốc quanh co, đố ai không thầm thì câu hát “ngày chúa nhật ngày của riêng mình?”

 

Tôi thích đi lễ nơi đây vì vị Cha xứ thân thiện, vui tính . Hôm ấy, đầu giờ lễ, Cha giới thiệu với mọi người, thành viên “one and only” của ca đoàn, vừa đánh piano vừa solo các bài hát lễ. Cô ấy mới nhận việc làm tại Banff National Park và đến gặp Cha, ngỏ ý tình nguyện giúp cho các Thánh Lễ và hôm ấy là buổi lễ đầu tiên của cô. Tiếng đàn và hát Nhập Lễ của cô rất ngọt ngào, thánh thót như chim hoạ mi. Sau hai Bài Đọc, cả giáo đường im ắng chờ tiếng đàn cô ấy và lời xướng Alleluia, nhưng cô vẫn ngồi im, tỉnh bơ. Cha bèn quay qua cô:

 

– Con có hát không, hay là để Cha hát?

 

Cô mới sực tỉnh, có lẽ chưa chuẩn bị, nên bối rối đáp lời:

 

– Vâng, mời Cha!

 

Cha thấy cô hơi đỏ mặt, bèn pha trò:

 

– No problem! Giọng hát của Cha nổi tiếng là hay mà.

 

Mọi người xôn xao cười khúc khích! Mà giọng của Cha quả là hay, hay thật. Chuyện vui vẻ ngay giữa giờ lễ nghiêm trang, có lẽ hiếm xảy ra trong các Thánh Lễ của cộng đồng người Việt Nam. Chẳng biết cái nào đúng sai, nên hay không nên, nhưng tôi chỉ cảm nhận buổi lễ rất ấm cúng, thân tình và… thoải mái.

 

Từ thành phố Edmonton của tôi, lái xe đến Banff khoảng 4.5 tiếng, nên gia đình tôi đến đây như... đi chợ. Mùa hè hay mùa đông, đến với Banff để quên đi những mệt nhọc của bận rộn thường ngày, thả hồn với thiên nhiên núi đồi. Trời hè nóng nực, người ta enjoy qua Lake Louise cách đó nửa tiếng lái xe, ngắm mặt hồ xanh lơ, mát dịu, rồi hiking trên những rẻo núi đồi cao ngất, mồ hôi rã rời nhưng khỏe khoắn, buổi chiều trở về hotel tắm rửa, đi dạo, ăn uống, đêm khuya vào bars tìm chút men cay lâng lâng tuyệt vời.

 

Mùa đông, cứ tưởng cái lạnh của Canada chẳng ai dám ra đường, nhưng đến Banff mới thấy cả một khung trời rộn rã. Nhân mùa nghỉ Đông, nhất là dịp Noel và đầu năm mới, người ta đổ về đây nườm nượp, nghỉ ngơi, trượt tuyết, thưởng thức các món ăn, sum họp gia đình bè bạn. Đến Banff mùa đông bạn nhớ phải book hotel trước vài tháng, nếu không muốn ở hotels xa xôi cả giờ lái xe.

 

Buổi sáng tôi thường làm biếng, thức dậy muộn, ngắm qua cửa sổ hotel phố núi Banff trong sương tuyết mịt mờ, nhưng cũng có vài lần tôi theo người nhà đến nơi trượt tuyết. Từ sáng sớm, mặt trời chưa lấp ló, người ta đã nối đuôi xếp hàng chờ những chuyến xe bus đưa vào vùng ski, những người tự lái xe đến cũng tấp nấp, thiệt vui, tôi tự hỏi chẳng ai biết lạnh lẽo là gì ư!

 

Phố núi Banff mùa đông, đẹp như một bức tranh, như những hình trên tấm thiệp Giáng Sinh chúng ta thường thấy. Tuyết phủ trắng cây cối, núi đồi, nóc nhà thờ và những con đường chập chùng tuyết rơi . Ban đêm lấp lánh những ánh đèn màu từ các cửa tiệm, cảm giác cô đơn thú vị khi đi giữa phố núi, áo khoác ấm, khăn quàng cổ, bao tay, nhâm nhi ly cafe nóng, hứng những bông tuyết rơi trên mặt, vào ly cafe, bám trên áo trên tóc, mà cứ ngỡ như ở khu Hòa Bình Đà Lạt năm nào với ly sữa đậu nành nóng ấp ủ đôi bàn tay. Riêng nhỏ bạn tôi nói, đến Banff vào đêm Noel có cảm giác như đang lạc vào... cõi khác chớ hổng phải gian trần. Không biết nó có... nặng lời quá không, mà thôi, mỗi người có một cảm nhận riêng . Nếu bạn nào đọc đến đây liền phấn khích đặt ngay vé đi Banff, rồi đến nơi “thấy dzậy mà hổng phải dzậy” thì ráng chịu nhe, đừng trách tôi không cảnh báo trước, bởi một khi người ta đã “yêu” thì tâng bốc “người yêu” đến tận mây xanh là chuyện bình thường!

 

Thành phố nào vừa xa đã nhớ?

Đây phố Banff, hay phố ngày xưa?

Xa lộ tôi về đầy tuyết gió

Để lại sau lưng, trời mộng mơ …

 

Tôi chưa đến Banff vào mùa Xuân và mùa Thu, nhưng cũng có thể hình dung được những vườn hoa lung linh trong nắng rực rỡ, và những thảm lá vàng lãng mạn bao la cả đất trời. Các bạn nào có tâm hồn mộng mơ, đa cảm đa sầu, nên đến Banff để tìm vần thơ, rồi đưa trí tưởng tượng bay bổng vào không gian, dù mùa nào cũng có những cảm xúc đặc biệt, khó có thể tìm thấy ở những nơi khác . Cũng giống như ở trên tôi vừa nói, đây là chỉ phần quảng cáo miễn phí cho Banff yêu dấu của tôi nên tôi hổng... chịu trách nhiệm nếu bạn đến nơi đây rồi ... tương tư, quên cả lối về.

Cám ơn phố núi Banff, cho tôi nối dài nỗi nhớ, tiếp tục mối tương tư dù xa cách quê hương vời vợi, vẫn thấy được “thành phố buồn” và “còn chút gì để nhớ để quên” của biết bao kỷ niệm thuở thanh xuân trong tâm tưởng ...

 

Phố núi Banff, phố đến nghỉ ngơi

Ngày mai lại phải xa nhau rồi

Tôi về với dòng đời tất bật

Người nhớ tôi không, Phố Núi ơi!!!

 

KimLoan

(Edmonton, August 2022)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.