Hôm nay,  

Nguyễn Văn Sâm: Người Giữ Hồn Nước

08/12/202210:54:00(Xem: 4800)
___ z 03 yz NGUYEN VAN SAM TRAN NGOC ANH
Giáo sư Nguyễn Văn Sâm cùng phu nhân, nhà văn Ngọc Ánh.



Người ta đã gọi Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm bằng nhiều danh hiệu, và lời nào cũng đúng, cũng trang trọng: nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà dịch thuật… Nhưng có một cách gọi khác. Tiến Sĩ Nguyễn Văn Trần từ Paris viết rằng Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm là Người Giữ Hồn Nước. Và thực tế, xuyên suốt tất cả những tác phẩm của GS Nguyễn Văn Sâm là một tấm lòng thiết tha muốn tìm về cội nguồn, để lắng nghe những chữ nghĩa sâu thẳm nhất của tiền nhân.

 

Tiến sĩ Nguyễn Văn Trần đã nhận định: “Cũng như chữ Hán, chữ Nôm là kho tàng gìn giữ một phần quan trọng văn hóa dân tộc. Muốn tiếp xúc với văn hóa dân tộc, phải biết chữ Hán và chữ Nôm. Muốn học chữ Nôm, phải biết chữ Hán. Nhưng chưa đủ, mà còn phải biết lịch sử, đời sống xã hội, cách cấu tạo chữ Nôm qua các thời kỳ…

 

Cách nay vài năm, cứ mỗi năm vào mùa thu, Giáo sư Hán Nôm Nguyễn Văn Sâm vẫn đều đặn qua Paris một tháng, dành nhiều thì giờ vào thư viện tìm những bản văn Nôm của tác giả xứ Nam kỳ để diễn dịch ra quốc ngữ với thêm chú giải. Cách nay hai năm, vì không kịp đọc tại chỗ, ông in lại hơn 3000 trang ôm về Huê Kỳ đọc và phiên dịch. Ông nói thấy ham quá nhưng bây nhiêu đây cũng phải mất nhiều thì giờ mới làm xong. Năm rồi ông không qua Paris được vì dịch Vũ Hán. Người nghiên cứu, phiên âm, chú giải chữ Nôm ra quốc ngữ để phổ biến là Người Giữ Hồn Dân Tộc. Giữ Hồn Nước!

 

Giáo sư Nguyễn Văn Sâm là người trong số rất hiếm quí làm công việc không còn mấy người làm này. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay tre đã già đang chờ măng mọc!”

 

Thử nhìn khắp trong và ngoài nước, chúng ta có thể đếm thấy nhiều ngàn nhà văn, hàng trăm ngàn nhà giáo… nhưng không có bao nhiêu người gọi được là học giả Chữ Nôm. Và trong các học giả Chữ Nôm, Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm đã nổi bật như một ngọn núi khổng lồ, nhờ các công trình dịch và chú giải các tác phẩm chữ Nôm, đặc biệt là “những tác phẩm chữ Nôm là những gia tài cổ có một không hai của văn học Việt Nam” – như cách nhà nghiên cứu Hoàng Kim Oanh ghi nhận qua bài viết nhan đề “Nguyễn Văn Sâm và dòng chảy văn chương Nam Kì Lục Tỉnh” trích như sau:

 

Ngoài tuồng, cải lương, truyện thơ bình dân, truyện ngắn, giai đoạn sau này, thơ Nôm là một thể loại được ông quan tâm đặc biệt. Ông cho rằng chữ Nôm và những tác phẩm chữ Nôm là những gia tài cổ có một không hai của văn học Việt Nam, ra đời trong một bối cảnh đặc biệt của đất nước và có giá trị giáo dục rất cao song đang dần bị mai một. Đó là các tuồng hát bội, truyện thơ viết bằng chữ Nôm chưa từng được phiên âm mà nguyên bản hiện còn đang nằm trong các thư viện lớn ở Âu Châu... Gần 20 năm nay, tác giả đã lặng lẽ đi tìm ở các thư viện trên các nước Mỹ, Pháp, kết hợp với những chuyến về thăm quê, lùng tìm… Có khi ngẫu nhiên nhặt được trên bệ thờ một gia đình xứ Huế, có khi trên gác bếp một căn nhà nông thôn Nam Bộ do con cháu biết là của ông cha để lại nhưng không hiểu nội dung viết gì đành giữ đó như một di vật của tổ tiên… Có khi được tặng không, có khi phải mua cả mấy cây vàng… Công cuộc tìm kiếm tôn tạo giữ gìn vốn cổ ấy cho đến nay nhà văn của chúng ta vẫn chưa dừng bước.”

 

Để hình dung được những chặng đường học và nghiên cứu rất mực đa dạng của Người Giữ Hồn Nước đó, nơi đây chúng ta ghi ra sơ lược tiểu sử của GS Nguyễn Văn Sâm.

 

GS Nguyễn Văn Sâm sanh ngày 21/3/1940 tại Sài Gòn. Tốt nghiệp Cử Nhân Giáo Khoa Triết Học (Tây Phương) năm 1965, Cao Học Văn Chương (Việt Nam) năm 1972, và Năm Thứ Nhứt Tiến Sĩ Văn Chương Việt Nam (Khóa độc nhất trước 1975). Từng dạy Trung học (Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, Pétrus Ký, Sài Gòn), Đại học (Sài Gòn, Cần Thơ, Hòa Hảo, Cao Đài, Vạn Hạnh). Vượt biên đến Nam Dương tháng 03/1979, vào Mỹ tháng 09/1979. Dạy học từ đó đến khi về hưu năm 2006. Viết cho các tạp chí Văn, Văn Học, Đi Tới, Chánh Pháp…

 

Thành viên Ban Biên Tập Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn. Giáo sư Viện Việt Học, California, Hoa Kỳ.

 

TÁC PHẨM IN TRƯỚC 1975:

 

1. Văn Chương Tranh Đấu Miền Nam (Kỷ Nguyên, Sài Gòn, 1969);

2. Văn học Nam Hà (Lửa Thiêng, Sàigòn, 1972, 1974);

3. Văn Chương Nam Bộ và Cuộc Kháng Pháp 1945-1954 (Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1972, Xuân Thu, CA, 1988).

 

SAU 1975:

 

A. Sáng tác:

 

1. Miền Thượng Uyển Xưa, tập truyện (Bách Việt, CA 1983, in chung với Đặng Phùng Quân);

2. Câu Hò Vân Tiên, tập truyện (Gió Việt, TX, 1984);

3. Ngày Tháng Bồng Bềnh, tập truyện (Gió Việt, TX, 1987);

4. Khói Sóng Trên Sông, tập truyện (Văn, CA, 2000);

5. Quê Hương Vụn Vỡ, tập truyện (Viện Việt Học, CA, 2012);

6. Giọt Nước Nghiêng Mình, tập truyện (Viện Việt Học, CA, 2018);

7. Ước Vọng Bay Tan, kịch thơ (Tiếng Quê Hương, Virginia, 2016).

 

B. Phiên âm từ sách Nôm:

 

1. Trương Ngáo (Viện Việt Học, 2008);

2. Tội Vợ Vợ Chịu (Viện Việt Học, 2010);

3. Người Hùng Bình Định (Viện Việt Học, 2012);

4. Mà Lòng Tôi Thương (Viện Việt Học, 2013);

5. Tỉnh Mê Một Cõi (Viện Việt Học 2015);

6. Báo Ứng Nhân Quả (Gió Việt, 2016);

7. Nữ Tắc Diễn Âm (Lời Dạy Đàn Bà – Con Gái);

8. Tam Quốc Diễn Nghĩa Ca. (Viện Việt Học, 2020);

8. Tuồng Kim Vân Kiều Nam Bộ (Viện Việt Học, 2021);

9. Quan Âm Tế Độ (Viện Việt Học, 2022).

 

C. Chú giải sách xưa:

 

1. Kể Chuyện Tình Buồn (Chú giải “U Tình Lục” của Hồ Văn Trung, 2014);

2. Chuyện Đời Xưa (Chú giải “Chuyện Đời Xưa” của Trương Vĩnh Ký (Ananda Viet Foundation, 2017).

 

Những người sinh hoạt trong học giới nghĩ gì về Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm và các công trình?

Cư sĩ Tâm Huy Huỳnh Kim Quang, cũng là một nhà nghiên cứu uyên bác về Phật học và Hán học, nơi Lời Giới Thiệu sách Quan Âm Tế Độ đã ghi nhận: “Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm là một trong số hiếm hoi các học giả có thẩm quyền về chữ Hán-Nôm của Việt Nam trong và ngoài nước hiện nay đã nỗ lực không ngừng để chạy đua với tuổi già sức yếu mà hoản thành việc phiên âm sang chữ quốc ngữ nhiều tác phẩm văn học chữ Nôm.”

 

Chúng ta sẽ thấy là, nếu một dịch giả không đủ uyên bác và nhạy cảm văn học như GS Nguyễn Văn Sâm sẽ không giúp độc giả hiểu và cảm được tác phẩm, có khi sẽ còn ngộ nhận hay hiểu sai lệch. Đặc biệt là nhiều tác phẩm cổ thường pha trộn tư tưởng tam giáo đồng nguyên Nho-Lão-Phật đòi hỏi người dịch và chú giải phải có một nền học vấn rất thâm sâu.

 

Do vậy, GS Trần Huy Bích nhận định rằng GS Nguyễn Văn Sâm đã rất công phu khi phiên âm và chú giải bản Quan Âm Diệu Thiện (Quan Âm Tế Độ Diễn Nghĩa Kinh). Dựa theo bản khắc năm Mậu Thân 1908 năm thứ 34 niên hiệu Quang Tự (nhà Thanh). Phiên âm từ chữ Nôm ra quốc ngữ là: Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Hiền Tâm.

 

GS Trần Huy Bích nói rằng GS Nguyễn Văn Sâm đã có những chú giải rất cần thiết. Bởi vì, nếu, không có chú giải, chúng ta không hiểu được chữ của tiền nhân.

 

Thí dụ như câu 87-88 ở sách Quan Âm Tế Độ:

 

Thiên Tôn Vô Cực tòa tiền

Từ Hàng quì gối phút liền tâu qua.

 

Chú giải rằng: Vô Cực Thiên Tôn theo dân gian Nam Bộ là Diêu Trì Kim Mẫu hay Tây Vương Mẫu, nhân vật truyền thuyết của Đạo Giáo. Còn Từ Hàng là hình ảnh Quan Âm Bồ Tát trong Phong Thần Diễn Nghĩa. Tức là trong tác phẩm, những niềm tin dân gian pha trộn nhau để thành tiểu thuyết chữ Nôm, như một phương tiện đem giáo lý nhà Phật tới cho người bình dân Nam Bộ.

 

Cái pha trộn tam giáo đó cũng hiển lộ ở câu 100, 101:

 

Chỉ ư chí thiện tiền trình đâu riêng

Lập công phản bản, hoàn nguyên.

 

Nhóm chữ “Chỉ ư chí thiện” là từ sách Đại Học của Nho Giáo, trong khi “phản bản hoàn nguyên” là từ sách Thiên Thai Chỉ Quán của nhà Phật. Nếu không có chú giải, độc giả thời nay sẽ khó nắm ý tác giả.

 

GS Trần Huy Bích cũng ca ngợi về chỗ chú giải câu thơ 909: Hay đâu cứng cổ việc tu.

 

Bản Nôm viết là “cheo” (Cheo đâu cứng cổ việc tu) nhưng GS Nguyễn Văn Sâm nhận ra là in nhầm vì nên là chữ “hay” do cách viết 2 chữ rất gần nhau. Nghĩa là, chữ nghĩa rất thâm hậu mới nhận ra sách in sai. Có bao nhiêu người trên đời này dò ra cái in sai của cổ thư? Hy hữu vậy.

 

Có một phương diện khác của Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm: viết truyện ngắn, và viết rất độc đáo. Nhà phê bình văn học Trần Văn Nam đã nhìn về nét phương ngữ qua bài nhan đề “Nguyễn Văn Sâm, nhà văn viết về những lập nghiệp lên từ sông Bến Nghé” trích như sau:

 

Ta thấy các nội dung trong các truyện của Nguyễn Văn Sâm không ngoài tình đất, tình quê hương, tình người nhân nghĩa, tình gia đình gắn bó; nhưng những điều đáng kể trong các truyện của Nguyễn Văn Sâm ở chỗ ông tận dụng phương ngữ của người bình dân Sài Gòn; có lẽ thuộc về phương ngữ Sài Gòn hơn là phương ngữ Nam Bộ như ta thường gồm chung lại. Do phương tiện đi lại thuận tiện, giao lưu thường xuyên giữa Sài Gòn và Miền Tây Miền Đông, nên phương ngữ các vùng ấy không có gì khác, nhưng cũng có những câu nói mà người Sài Gòn bình dân thường dùng nhiều hơn. Trong các truyện của Nguyễn Văn Sâm, phương ngữ rất dồi dào; như vậy nhà văn như cũng đã áp dụng phương châm của một số nhà văn coi “cách diễn tả quan yếu hơn điều muốn diễn tả”. Cách diễn tả muốn cho đậm chất tình quê hương tình đất thì tận dụng phương ngữ, như vậy làm cho nội dung và hình thức gắn bó với nhau. Nhưng thiển nghĩ, điều ấy nên áp dụng ở những câu đối thoại.”

 

Một văn phong miệt vườn, nhưng đi rất xa… Đó là nhận định từ nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh khi nói về ngòi bút Nam Bộ trong truyện Nguyễn Văn Sâm qua bài viết nhan đề “Đọc ‘Khói Sóng Trên Sông’ của Nguyễn Văn Sâm” trích như sau:

 

Văn chương Nguyễn Văn Sâm tưởng chừng theo truyền thống viết-như-nói khởi từ trường phái Trương Vĩnh Ký, qua Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc đến Võ Kỳ Điền, Nguyễn Tấn Hưng thời hiện đại. Khởi sáng tác cùng thời với hai nhà văn sau, nhưng các truyện ngắn của Nguyễn Văn Sâm nếu đọc kỹ mới thấy ông đi xa hơn: ông viết như nghĩ và dùng ngôn ngữ nói để làm văn chương. Ông hấp dẫn người đọc bằng các chi tiết ly kỳ xen kẽ với lối nói, lối suy nghĩ của các nhân vật đa dạng nhưng tiêu biểu cho “miệt vườn”. Cái khiến Nguyễn Văn Sâm không giống các nhà văn “miệt vườn” khác, là chính trong câu văn mà muốn hiểu thì người đọc phải hiểu được mạch nổi, mạch chìm và lớp từ ngữ bộn bề, dồi dào, nhuốm trí thức của ông. Có thể xem Chờ Cho Trăng Lặn và Như Nước Trong Nguồn là hai truyện ngắn tuyệt tác tiêu biểu của Nguyễn Văn Sâm!”

 

Tuy nhiên, tận trong gốc rễ, nhà văn Nguyễn Văn Sâm đã viết truyện như một nhà giáo, với ngòi bút rất mực thần sầu quỷ khốc. Đó là nhận định của Giáo sư Đàm Trung Pháp, người có giao tình với GS Nguyễn Văn Sâm vì là đồng nghiệp dạy học ở các đại học Sài Gòn trước 1975, sau qua Mỹ gặp lại và cùng hoạt động về Việt học. GS Đàm Trung Pháp trong bài viết nhan đề “Giới thiệu tập truyện Quê Hương Vụn Vỡ của Nguyễn Văn Sâm” đã ghi nhận về người viết truyện rất mực Nam Bộ này như sau:

 

Quý bạn đọc đang cầm trong tay một tuyển tập truyện ngắn đặc sắc qua ngòi bút Nguyễn Văn Sâm. Tôi có cảm tưởng mỗi truyện anh viết là một kỷ niệm đậm sâu trong đời anh, hoặc trong đời một người rất thân của anh, mà khi đọc xong, dù vui hay buồn, tôi còn lưu luyến mãi trong lòng như một nhắc nhở ray rứt. Anh là một nhà văn gốc nhà giáo có một tâm hồn hướng thượng, một trái tim nhân ái, một ước vọng chấn hưng đạo đức trong một quê hương đang băng hoại về lối sống; do đó, mỗi truyện của anh là một bài ngụ ngôn thấm thía. “Văn dĩ tải đạo” là sứ mệnh văn chương của anh mà anh đã thực hiện một cách ngoạn mục trong tập truyện. Phương tiện để anh đạt mục tiêu vừa kể là một văn phong truyền cảm, thành tâm, sâu sắc, quan sát tận tường. Thêm vào đó là những yếu tố bất ngờ kỳ thú trong các cốt truyện được anh xây dựng mạch lạc, những từ vựng thực vui mắt của một phương ngữ miền Nam đáng yêu, và những đoạn văn tả chân thần sầu quỷ khốc của anh mỗi khi anh ra tay hạ xuống. Một bí quyết nữa khiến những truyện ngắn của anh thành công là chúng đều có một mở đầu gợi cảm kích thích bản chất tò mò của người đọc (khiến họ không thể bỏ cuốn sách xuống) và một kết luận làm người đọc xao xuyến trong lòng (khiến họ khó quên được câu chuyện).”

 

Nhìn chung về truyện ngắn Nguyễn Văn Sâm, chúng ta thấy rằng tác giả không tách rời mình vào trong tháp ngà của văn chương. Ông hội nhập vào đời sống, mở mắt lớn ra nhìn những cảnh đời và ghi nhận những điều xấu cũng như tốt của cuôc đời: Truyện ngắn của Nguyễn Văn Sâm còn gần gũi thời sự với những chuyện tranh chấp biển đất của Trung-quốc, khiến những hố chưn voi chia cắt những người Hoa-Việt sống chung từ nhiều đời (Những hố chưn voi trong lòng người). Hay chuyện người Hoa chế biến thực phẩm, dầu mè ra sao (Chuyện đổi chó), chuyện hóa chất, chuyện đẻ mướn, chuyện 'tàu lạ' hoành hành ngoài khơi, v.v. đã xảy ra từ thuở xa xưa rồi! Không lạ, nhưng khi đặt đặt để trong chuyện, thì lạ lẫm hơn bình thường!

 

Nhìn về bối cảnh phía sau những trang chữ đó, cần phải nhắc tới một mối lương duyên đã trở thành nguồn tình cảm rất lớn để cảm thông và hỗ trợ: là hiền thê và là một tri kỷ của GS Nguyễn Văn Sâm, phu nhân Trần Ngọc Ánh là một phụ nữ sau năm 1975 đã xông pha vì yêu nước, chịu nhiều năm tù, và rồi trở thành một nhà văn sau khi kết hôn với GS Nguyễn Văn Sâm và sang Hoa Kỳ cư ngụ.  

 

Cô Phan Dụy, một học trò cũ của GS Nguyễn Văn Sâm tại Đại Học Văn Khoa SG trước 1975, ghi lại cảm nghĩ về mối lương duyên của Thầy Sâm: “Nói về Thầy tôi, không thể không tỏ lòng cảm mến, biết ơn và cảm phục cô Ngọc Ánh, người phụ nữ này nếu không là con cháu của Bà Trưng Bà Triệu, thì cũng là đồng đội tâm huyết của Cô Giang Cô Bắc. Theo cá nhân chúng tôi, cô Ngọc Ánh là người phụ nữ chịu đứng mũi chịu sào cho chuyến đò dọc, chở Thầy tôi, và sự nghiệp của người đã dày công xây dựng suốt cả một đời người, kể từ tác phẩm “Văn Chương Tranh Đấu Miền Nam” năm 1969, cho đến ngày nay, một gia tài kếch sù về bộ môn biên khảo đặc biệt về Chữ Nôm và Chữ Hán, mà tôi có thể rất tự hào thiên vị-chủ quan để nói rằng khó có ai sánh kịp, đó là chưa kể những tác phẩm sáng tác, tập truyện, thơ, bày tỏ tình cảm nỗi lòng của mình cũng như nói giùm cho kiếp nhân sinh trong những ‘Ngày Tháng Bồng Bềnh’…

 

Đặc biệt, trong ngày mừng sinh nhật 81 của GS Nguyễn Văn Sâm, nhà văn Trần Ngọc Ánh cũng là vị hiền thê trăm năm tri kỷ của Giáo sư, đã làm 4 câu thơ chúc mừng phu quân như sau:

 

Mừng Sinh Nhật

 

Cây cổ thụ lâu nay vẫn còn sức

Thầy Đồ Sâm vẫn thức với thời gian

Tám mươi mốt năm tay bút vững vàng

Cố giữ chút hương ngàn Văn Hóa Việt.

(Ngọc Ánh, 21/3/2021)

 

Và bản thân tôi, người mang ơn những dòng chữ viết của GS Nguyễn Văn Sâm, xin trân trọng làm mấy dòng thơ kính tặng Thầy Sâm:

 

Kính Tặng Thầy Sâm

 

Nửa đêm dò trang chữ cổ

bụi vàng phủ mấy trăm năm

nghe vọng bút nghiên cung kiếm

về khua mở hội trăng rằm.

 

Triệu mời hồn xưa trong gió

Thầy tìm dịch lại từng trang

so chữ đêm dài cũng ngắn

chép từng dòng thơ mênh mang.

 

Nghe dây cổ cầm bật khóc

quân binh thúc ngựa hí vang

Thầy ghi lại hồn giấy mực

tóc râu nhuộm trắng mây ngàn.

 

– Phan Tấn Hải

 

 

 

Ý kiến bạn đọc
04/01/202513:21:50
Khách
Quá đủ và quá chuyên môn, hiểu rõ ràng nhữn gma5ch nguồn tài liệu sống mà tg lấy đó làm đề tài. Phục thiền hữu Phan Tấn Hài.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.