Hôm nay,  

Tình yêu của mẹ

24/12/202210:31:00(Xem: 4288)

Truyện


mother-n-son 


Lúc Kay còn nằm trong bụng mẹ, bác sĩ đã cho biết em mắc phải nhiều căn bệnh hiểm nghèo, cuộc sống em sẽ rất ngắn ngủi. Cát đau đớn tột cùng, nhưng vẫn quyết định giữ lại con. Việc Cát quyết định giữ lại con là mối bất hòa giữa vợ chồng cô. Anh có lý lẽ của anh. Cát có lý lẽ của Cát. Lý lẽ nào nghe ra cũng hợp lý.

 

Anh:

 

– Con ra đời mà phải chịu bệnh tật thì thật tội nghiệp thân nó. Mình thương con thì không nên để con phải khổ. Khổ cả thể xác lẫn tinh thần. Nó sẽ mặc cảm thân phận…

 

Cát:

 

– Điều đó chưa hẳn đúng với tất cả. Rất nhiều người khuyết tật về thể xác nhưng vẫn rất hạnh phúc. Chỉ có khuyết tật về tâm hồn mới đáng sợ. Em nghĩ, khi con đã tượng hình, nó có quyền được bước vào cuộc đời. Ít nhất con sẽ được nhìn thấy cha mẹ, được nếm giọt sữa mẹ, được khóc được cười, được ngắm bầu trời, được ngóng mưa trông nắng… Em nghĩ, được làm người là một hạnh phúc.

 

Những cuộc tranh luận cãi vã ngày càng nặng nề, ngày càng cay đắng. Và giọt đắng cuối cùng đã tràn chén đắng khi anh lắc đầu nhìn Cát:

 

– Em cần phải biết người đời sẽ dị nghị như thế nào khi nhìn thấy con mình không trọn vẹn hình hài!

 

Cát sửng sốt nhìn anh, nhìn thật lâu, rồi cũng lắc đầu. Cô nói chậm, giọng nghẹn ngào nhưng cương quyết:

 

– Dị nghị ai? Con hay chúng ta? Đối với em, ai đó dị nghị là việc của họ, còn mình như thế nào mới là việc của mình. Thôi được. Em hiểu. Em không trách anh. Và em tin con chúng ta cũng sẽ không trách anh. Tuy nhiên, nếu anh đã nói như vậy thì chúng ta nên chia tay nhau. Em và con sẽ không bao giờ, mãi mãi không bao giờ phiền lụy đến anh. Hãy xem chuỗi ngày chúng ta chung sống như một giấc mơ thoáng qua. Còn đứa con nầy là của em, của riêng em thôi.

 

Chỉ một tháng vội vàng sắp xếp, Cát dời sang một tiểu bang xa, nơi có chị bạn thân thời trung học. Chị ấy là chủ một tiệm phở. Chị sẵn lòng chia sẻ với Cát chỗ ở, cho Cát công việc nhẹ trong tiệm. Không muốn lợi dụng lòng tốt của chị, chừng vài tuần sau, Cát tìm được chỗ ở khác.

 

Vừa chào đời, Kay đã phải sống trong lồng kính, mang ống thở cùng nhiều dây nhợ quanh người. Gần bảy tuổi, Kay vẫn chưa biết nói. Nhưng em biết nhìn và biết cười. Ánh mắt và nụ cười của em thay cho lời nói. Em luôn giữ nụ cười và ánh mắt hiền hậu với những người quanh em. Đặc biệt nụ cười, ánh mắt em sáng bừng rạng rỡ niềm vui và âu yếm khi em có mẹ Cát bên cạnh. Gần bảy tuổi mà thân hình Kay như đứa trẻ chừng ba tuổi. Em vẫn chưa biết đi, vẫn phải ngồi trong xe đẩy với ống thở và nhiều dây nhợ quanh người, nhưng em biết vẽ. Em vẽ mẹ Cát. Em vẽ những cô đến chăm sóc em. Em vẽ con chó nhỏ quanh quẩn bên em, vẽ dáng cây bên ngoài khung cửa… Những bức tranh của em đơn sơ dễ thương với sắc màu tươi sáng.

 

Kay đã phải trải qua nhiều cuộc phẫu thuật về tim, gan, thận… Em chịu đau đớn rất giỏi. Có vẻ như em sợ làm phiền người khác nên chỉ rên rỉ nhè nhẹ qua hơi thở. Kay càng ít khi khóc. Mà nếu khóc, em chỉ khóc thật nhỏ. Cát gọi con mình là Người Hùng của mẹ, là Anh Chàng Đáng Yêu của mẹ, là Tình Yêu của mẹ.

 

Rồi một buổi sáng giữa tháng mười hai, trong lớp chăn nệm êm ái, Kay không thức dậy nữa. Em đã ngủ quên, mãi mãi.

 

Chị bạn hiểu hoàn cảnh cô đơn và khó nghèo của Cát, liền nói chuyện với Ban Chấp sự của nhà thờ. Ngay lập tức, một nhóm tín đồ và mục sư đến thăm viếng, yên ủi Cát. Rồi với sự đồng ý của Cát, nhà thờ đứng ra tổ chức tang lễ cho Kay.

 

Tình Yêu của Cát đã ra đi. Bầu trời trên đầu Cát đã khép lại. Mặt đất dưới chân Cát đã sụp đổ. Bước chân cô chao đảo hụt hẫng. Trái tim cô tan vỡ. Tất cả đã tan vỡ. Chỉ còn lại nỗi đau đớn không cùng, nỗi trống vắng cô đơn tuyệt vọng không cùng.

 

Sau đám tang con, Cát gục ngã. Cô nằm bẹp dí trên giường. Im lặng. Bất động. Cô không buồn bật đèn khi đêm đến. Toàn thân cô như tê cứng. Cô không còn ý niệm về không gian, thời gian. Cô không hề hay biết ngày cứ đi và đêm cứ đến theo tuần hoàn vĩnh cửu. Cô nằm đó, mải mê nhìn bầu trời ảm đạm lạnh lẽo trắng xóa mênh mông tuyết qua khung kính cửa sổ. Mải mê nhìn theo những bông tuyết bay chấp chới, quay cuồng trong bầu trời xám xịt, hắt hiu. Mải mê tìm kiếm một vì sao xa nhấp nháy đâu đó trong mông lung đêm tối. Tất cả, tất cả đều khơi dậy niềm thương nỗi nhớ Kay quặn thắt trái tim cô. Nước mắt cô dường đã cạn khô. Cô thấm thía đến tận cùng sự mong manh khổ đau của kiếp người.

 

*

           

Tuần lễ cuối của tháng mười hai lạnh căm. Tuyết phủ trắng xóa những tòa nhà cao ngất đến các lối mòn ven dòng sông đã đóng băng. Tuyết phủ trắng xóa những tán cây cổ thụ khổng lồ cho đến từng nhánh cỏ ven bìa rừng. Cả thế giới đang háo hức vui mừng chào đón Giáng Sinh. Không khí mùa lễ hội tất bật, nhộn nhịp. Những bài hát Giáng Sinh vang lừng. Ánh đèn lung linh rực rỡ sắc màu khắp nơi.

 

Chị bạn gọi điện thoại cho Cát nhưng Cát đã tắt máy. Chị đến chỗ Cát ở, gõ cửa nhưng không hề có tiếng trả lời. Lo lắng, chị nhờ chủ nhà mở khóa giùm. Cát đang nằm im lìm trên giường. Xanh xao, yếu ớt, mỏi mệt, mắt nhìn xa vắng. Chị bạn đỡ Cát dậy, lấy khăn ấm lau mặt cho Cát, lấy dầu chà xát thái dương, lòng bàn tay, bàn chân Cát. Ép Cát ăn được ít phở nóng. Chị thủ thỉ trò chuyện với Cát, rằng chị tin chắc trên thiên đường Kay cũng đang tíu tít cùng các bạn nhỏ chuẩn bị cho ngày vui lớn nầy.

 

Đêm Giáng Sinh, chị bạn đưa Cát đến nhà thờ.

 Không khí bên trong nhà thờ ấm áp, thoang thoảng mùi thơm dễ chịu. Khung cảnh lộng lẫy với các sắc màu: đỏ, trắng và xanh lá cây. Tình yêu Thiên Chúa truyền hơi ấm qua những bàn tay siết chặt nhau, lan tỏa trên những nụ cười hân hoan chân tình, những khuôn mặt tươi vui, niềm nở ân cần, những ánh mắt chan chứa thương yêu. Tình yêu Thiên Chúa đầy ắp tuôn tràn trong những lời chúc nhau bình an, thịnh vượng, phước hạnh.

 

Chị bạn và Cát đến ngồi trong góc ở dãy ghế trên cùng, bên cạnh cây thông lớn được trang trí đẹp tuyệt vời. Chương trình lễ bắt đầu với những bài thánh ca Giáng Sinh. Giai điệu êm ái mượt mà tha thiết hòa lẫn tươi vui rộn rã sôi động. “Đêm xuống êm đềm. Chuông thánh vang rền. Lướt lướt êm qua bao miền… Đêm Chúa ra đời…” We wish you a Merry Christmas. We wish you a Merry Christmas. We wish you a Merry Christmas. And a Happy New Year…” Cảm xúc rất lạ, trong veo, thiêng liêng đang chạm đến tận sâu thẳm trái tim Cát. Mắt cô rưng rưng, cổ cô nghèn nghẹn mà không hiểu duyên cớ.

 

Kìa! Ban nhạc thiếu nhi đang bước ra sân khấu. Các thiên đồng được trang phục toàn màu trắng với những đôi cánh trắng. Tinh khôi, thanh khiết. Đám trẻ chộn rộn một chút rồi hàng trước hàng sau đâu vào đó. Bài Jingle Bells rộn rã ngân vang. Khuôn mặt bé thơ hồn nhiên, giọng bé thơ non nớt. Đáng yêu làm sao! Trong nỗi buồn thương thổn thức, nước mắt tuôn trào, Cát buột miệng thốt lên nho nhỏ: “Kay ơi… Kay ơi… mẹ nhớ con quá Kay ơi!”

 

Chị bạn có lẽ thấu hiểu tâm tình của Cát, chị nắm chặt bàn tay Cát, thì thầm: “Kay đang được Chúa bồng ẵm em à. Kay cũng đang nhớ mẹ Cát, yêu mẹ Cát lắm. Mình cùng cầu nguyện em nhé…”

 

Bao ám ảnh bất hạnh, bao hoài nghi chợt tan biến. Nỗi thương nhớ quay quắt đau đớn đến đứt từng khúc ruột bỗng trở nên dịu dàng mềm mại. Cát cảm thấy lòng nhẹ nhõm, thanh thản, tràn ngập niềm an ủi diệu kỳ.

 

“Kay ơi, mẹ cảm ơn con đã làm con của mẹ. Con đã chịu thương chịu khó đến với cuộc đời mẹ, để mẹ được nếm trải hương vị ngọt ngào của tình mẫu tử. Để mẹ được bồng bế con, được hôn con, được nhìn con cười con khóc, được chăm chút vỗ về, dỗ dành con, được vui đùa cùng con… Kay ơi! Con là Tình Yêu của mẹ! Mẹ sẽ không bao giờ, không bao giờ thôi thương nhớ con. Kay ơi, mẹ cảm nhận được Tình Yêu con đang sưởi ấm trái tim mẹ…

 

Kay ơi, nếu được quay lại từ đầu, phải, nếu được quay lại từ đầu, mẹ vẫn muốn có con, vẫn hình hài đó, hình hài không hoàn hảo nhưng Tình Yêu con đem đến cho mẹ thì hoàn hảo. Vẫn là con đó, ánh mắt nụ cười đó, vẻ nũng nịu trẻ thơ đó, để mẹ được yêu thương con. Mãi mãi… Tình Yêu của mẹ…”

 

– Trương Thị Kim Chi

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.