Hôm nay,  

Đà Lạt, một mùa xuân

03/01/202317:13:00(Xem: 4065)
Truyện

IMG_3987


Thuỷ chạy đến nhà tôi buổi chiều muộn, hớn hở:

 

– Công ty của anh tao có chuyến chiêu đãi nhân viên đi Đà Lạt năm ngày, mà phút cuối anh tao và bà chị dâu bận việc nên nhường hai chỗ cho tụi mình, mày muốn đi không?

 

Ôi, Đà Lạt, thành phố mộng mơ mà tuổi mười tám tôi chưa hề bước chân đến đó. Tôi thích lắm, hỏi Thuỷ:

 

– Bất ngờ quá, dĩ nhiên là đi rồi, nhưng tụi mình phải chuẩn bị gì đây, ngày nào lên đường, liệu có ảnh hưởng chuyện đi học?

 

Thủy hào hứng:

 

– Đi vào cuối tuần này, tụi mình chỉ nghỉ học 3 buổi, bây giờ sắp Tết, đi học cũng chẳng học gì đâu, thầy cô cũng thoải mái. Mình đi theo đoàn, được miễn phí tiền xe và tiền nhà nghỉ, đâu dễ gì có dịp khác.

 

Tối hôm đó, sau khi tôi xin phép gia đình, hai đứa bàn bạc đủ thứ chuyện và chuyện tài chánh eo hẹp của tuổi học trò cũng làm chúng tôi tính toán kỹ lưỡng. Vì muốn chụp thật nhiều hình cho chuyến đi mà không phải tốn tiền nhiều, chúng tôi quyết định mua hai cuộn phim trắng đen Kodak, thay vì một cuộn phim màu rất đắt tiền, khi lên tới Đà Lạt sẽ tìm một người chụp hình, nhờ họ chụp, trả tiền công, rồi đem về Sài Gòn rửa tại các tiệm chụp hình.

 

Vừa đến thành phố sương mù, nhận phòng là hai đứa tôi xuất phát ra đường vì muốn tận hưởng từng phút từng giây vẻ đẹp của Đà Lạt. Cao nguyên những ngày gần Tết thật lạnh nhưng rất thú vị theo từng cơn gió rít, chúng tôi được dịp diện áo khoác áo măng tô mà ở Sài Gòn chưa có cơ hội. Bước qua khu đồi nhà nghỉ là xuống con dốc, đi bộ vài trăm mét là đến trung tâm chợ Đà Lạt, chưa kịp ngắm phố phường xung quanh thì bốn năm người thợ chụp hình đã vây đến, chào hỏi chúng tôi chụp hình. Tôi nói với Thuỷ:

 

– Tụi mình ra góc chợ uống sữa đậu nành nóng rồi từ từ quan sát, chọn một thợ chụp hình mà mình tin tưởng và nói chuyện... giao kèo.

 

Vừa uống sữa, Thuỷ chỉ tay về phía bên kia đường:

 

– Hay là mình chọn anh chàng kia đi, nhìn anh ta trẻ trung nhanh nhẹn hơn mấy ông sồn sồn hồi nãy…

 

– Và đẹp trai nữa chứ!

 

– Hứ! Thì đó chỉ là một phần, cái chính là trẻ trung, mới đủ… sức khoẻ và vui vẻ trèo đèo xuống thung lũng với tụi mình cả ngày được.

Hai đứa tiến tới, anh chụp hình nhìn chúng tôi với một nụ cười chào hàng rất có duyên và thân thiện (ui chao, hễ ai có răng khểnh giống tôi là tôi có cảm tình liền hà!). Sau khi nghe chúng tôi trình bày, anh giới thiệu tên là Quang, đồng ý chấp nhận giá cả, chỉ thêm một điều kiện là tại các nơi thoả thuận, như Hồ Xuân Hương, Thác Cam Ly, Thung Lũng Tình Yêu, Đồi Cù… chúng tôi phải chịu khó chờ anh ấy chụp hình cho những người khách du lịch khác nữa (anh ấy đeo 3 máy trên mình, trong đó một máy chụp riêng hai cuộn phim chúng tôi).

 

Phải công nhận anh ấy nhiệt tình, hẹn nhau chụp hình bốn buổi của hai ngày, mỗi lần đến chỗ hẹn là anh ấy luôn đứng chờ sẵn, nụ cười tươi rói túc trực trên môi. Anh hướng dẫn chúng tôi chụp đủ kiểu dáng, góp ý bối cảnh không thiếu góc chụp nào. Đáp lại, chúng tôi thong thả ngắm cảnh trong khi chờ anh ấy bận rộn ngang dọc quay cuồng với những du khách khác, và lần nào xong chúng tôi cũng mua cho anh ấy ly nước, miếng bánh như lời cám ơn.

 

Trước khi đến ngày hẹn giao phim, Thuỷ bỗng lo lắng:

 

– Ê, có khi nào anh ta… lừa tụi mình không? Anh ta làm bộ chụp bấm ào ào, rồi đưa mình cuốn phim hư cũ, làm sao mình biết được? Coi như anh ta vừa được tiền công vừa được hai cuốn phim mới, ngon lành!

 

Tôi cũng đâm lo:

 

– Thì lỡ leo lưng cọp phải chịu chớ sao! Tự dưng mày làm tao cũng bắt đầu lây rồi nè, lo thật!

 

Hôm sau, đến nơi, anh ấy trao cho chúng tôi hai cuộn phim và bất ngờ tặng thêm tấm hình màu của hai đứa chụp chung và riêng mỗi đứa một tấm hình màu:

 

– Tặng hai cô mấy tấm hình màu làm kỷ niệm xứ sương mù nhé, hai cô thiệt… dễ thương!

 

Tôi nhanh nhẩu:

 

– Ủa, anh chụp mấy tấm này lúc nào mà tụi tui không biết?

 

Anh ấy có vẻ mắc cỡ:

 

– Có mấy lúc thấy hai cô làm dáng xuất thần quá, tôi liền cảm xúc chuyển qua máy của tôi vì hình màu sẽ đẹp hơn nhiều.

 

Nhỏ Thuỷ làm tới:

 

– Vậy là anh vi phạm hợp đồng rồi nhé, chụp ảnh người ta ngoài dự định mà hổng… xin phép!

 

Thấy anh ấy bối rối, tội nghiệp quá chừng, tôi phải nhảy ra cứu:

 

– Nhưng ba tấm hình này quá đẹp, đúng như anh nói, nhìn hai đứa tôi rất tự nhiên và… dễ thương hết sức nên chúng tôi chịu… nhận, và không làm khó dễ anh nữa!

 

Sau khi trả tiền, nói lời cám ơn và chia tay, về nhà nghỉ, Thuỷ quả quyết:

 

– Vậy là anh ta lừa mình rồi Loan ơi!! Anh ta tặng mấy tấm hình màu để… nhẹ tội và mình khỏi nghi ngờ đó.

 

– Mày đa nghi quá, mà tao thấy anh ấy rất chân tình, dễ mến, yêu nghề say sưa, chỉ dẫn tụi mình từng li từng tí, sửa từng lọn tóc trên trán, cách đứng tạo dáng bên hồ, bao giờ đúng ý anh ấy mới chụp. Chưa kể anh ấy không ngại ngần giúp đẩy hai đứa lên yên ngựa chiều theo ý tụi mình muốn làm gái "cao bồi" khi đứa nào cũng lóng nga lóng ngóng vì con ngựa quá cao, rồi đến Thác Cam Ly mày suýt té vì đôi dép lưới bị vướng cây dại, nếu không có anh ta đỡ thì giờ này chắc mày còn nằm ở bệnh viện chớ còn thời giờ mà ngồi đây nghi ngờ lung tung.

 

– Tao vẫn biết thế, nhưng sao cũng vẫn lo lo. Thời buổi này kẻ xấu thiếu gì, mình lại là khách phương xa, chắc gì gặp lại lần thứ hai, nên họ cũng có đủ cách lừa đảo.

 

– Mà thôi, chúng mình chờ hạ hồi phân giải.

 

Buổi sáng ngày tạm biệt Đà Lạt, hai đứa vừa bước qua chợ, gặp ngay chàng chụp hình ngay cổng chợ, mừng rỡ:

 

– Chào hai cô, hôm nay hai cô về Sài Gòn phải không?

 

– Đúng vậy anh ạ, xe chờ ở cuối đường, cho mọi người một tiếng để đi chợ.

 

– Hai cô mua sắm xong chưa?

 

– Tụi tôi đã mua xong từ hôm qua, giờ chỉ ra đây uống sữa đậu nành và ngắm núi đồi Đà Lạt lần cuối trước khi về với Sài Gòn nắng bụi. Mà anh đứng đây... chờ tụi tôi hả?

 

Anh thợ chụp hình bối rối:

 

– Đâu có! Tui ra đây tìm... khách chụp hình, hay là mời hai cô vào quán uống sữa nhé?

 

Nhỏ Thuỷ ghé vào tai tôi, thì thào:

– Thấy chưa, khi không anh ta mời mình đi uống sữa làm gì cho tốn tiền, chắc là "chôm" hai cuốn phim Kodak của chúng mình rồi.

 

Vào quán, nói loanh quanh chuyện Đà Lạt, anh ấy bắt chuyện:

 

– Lần đầu đến nơi đây, hai cô có sợ lạnh không?

 

Tôi mơ mộng:

– Không anh ạ, trái lại là rất mê khí hậu Đà Lạt, chiều qua tụi em đi dạo khắp các con đường xung quanh nhà nghỉ, ngắm những ngôi nhà bé bé xinh xinh có giàn hoa nơi cổng, dọc theo mấy ngọn đồi, đẹp như khung cảnh của xứ Châu Âu xa xôi, tuyệt vời lắm.

 

– Còn cô Thuỷ, sao không nói gì?

 

Nhỏ Thuỷ đỏ mặt:

 

– Tôi hả, tôi sẽ nhớ lúc đi lễ nhà thờ Con Gà, và cà phê nhà hàng thủy tạ ở Hồ Xuân Hương.

 

Anh ấy nháy mắt:

– Vậy là hai cô thích bài hát “Thành Phố Buồn” của Lam Phương có Đà Lạt “tiếng chuông chiều chầm chậm thê lương”.

 

Tôi cãi lại:

 

– Không hề anh ạ! Bài hát đó nghe buồn quá, dành cho mấy người lớn tuổi, thất tình, còn tụi em mới bước vào tuổi… yêu đời, ở Sài Gòn bây giờ các chàng trai thiếu nữ chỉ mê mẩn bài hát Mimosa của Đà Lạt mà thôi.

 

Anh ấy gật gù, bỗng cất giọng ngân nga:

 

– Mimosa... vì sao em tới, Mimosa... vì đâu em đến nơi này, Đà Lạt đồi núi chập chùng, Đà Lạt trời mây nước mênh mông?

 

Trời ơi! Hễ đến câu "Mimosa, từ đâu em tới" là anh nhìn lần lượt hai đứa chúng tôi, đến khi ảnh nhìn tôi, ánh mắt chan chứa tình cảm, như là đang hỏi... tôi vậy á!

 

Tôi reo lên:

 

– Ôi, anh hát hay quá, lẽ ra anh nên làm ca sĩ mới phải.

 

Nhỏ Thuỷ lườm tôi:

 

– Tại mày ca dở nên thấy ai hát cũng hay.

 

Bỗng anh hỏi:

 

– Tôi thỉnh thoảng cũng lên Sài Gòn, hai cô ở đâu, nếu không có gì phiền hà thì cho tôi địa chỉ để tiện dịp tôi ghé thăm được không?

 

Tôi và Thuỷ nhìn nhau, mấy cái vụ “cho anh xin số nhà” này ở Sài Gòn tụi tui gặp hoài, thường là chúng tôi từ chối, vì mấy thằng bạn chung lớp chung trường gạt ra còn không hết, kết thêm bạn mới làm gì, nhưng lần này nhìn vào mắt anh ấy, có gì đó níu kéo, thúc đẩy, làm tôi mềm lòng nhưng tôi không dám trả lời vì sợ nhỏ Thuỷ lại lườm tôi, ai dè nó còn mau mắn hơn tôi:

 

– Anh cứ đến Gò Vấp, hỏi Ngã Năm, rồi hỏi nhà máy Z.751 và hỏi hai tên này là tìm ra tụi tôi.

 

Thủy bắt anh "hỏi" mấy lần. Tôi tội nghiệp gỡ rối:

 

– Vì khu Z.751 chỉ có xóm nhỏ của tụi tôi, ai cũng biết nhau.

 

Trên xe trở về Sài Gòn, tôi hỏi Thuỷ:

 

– Nhà ngươi nghi ngờ người ta, sao còn chỉ đường tìm nhà làm gì?

 

Cô nàng ngượng ngùng chẳng dám trả lời. Tôi tiếp:

 

– Mày một vừa hai phải thôi! Anh ấy tặng mình ba tấm hình màu, giá không rẻ đâu nhe, rồi bữa nay mất hai ly sữa đậu nành và hai tô bún bò Huế, rồi anh ấy còn mất cả buổi sáng ngồi quán nói chuyện với mình, thì hai cuộn phim Kodak cũng chưa đủ cho anh ấy lấy lại vốn, thậm chí còn lỗ là đằng khác, ở đó mà nghi ngờ người ta.

 

Về tới Sài Gòn, chúng tôi đem phim đi rửa, nhưng phải chờ hai tuần mới có hình. Nôn nao, hồi hộp, lo sợ, rồi cũng đến ngày lấy hình. Các tấm hình đều đẹp, như ý, và đầy đủ không thiếu tấm nào. Hai đứa ngồi ngay công viên Nhà Thờ Đức Bà ngắm nghía xuýt xoa từng tấm hình. Nhỏ Thuỷ sau khi vài chục lần xem hết xấp hình, ngước lên nhìn tôi, mơ màng:

 

– Thì ra tao đã vu oan giá hoạ cho “người ta” …

 

Tôi được dịp chì chiết nó:

 

– Tao đã bảo rồi, “nhìn mặt mà bắt hình dong” thì anh ấy không thể nào là loại người lừa đảo, hơn nữa, chính mày là người lựa chọn anh ấy ngay từ phút đầu, phải không?

 

Suốt đoạn đường đạp xe về nhà, nhỏ Thuỷ cứ tủm tỉm cười, đôi má ửng hồng, có lúc còn e thẹn, ngập ngừng hỏi tôi:

 

– Tụi mình nói anh ấy đến khu Z.751, liệu ảnh có tìm ra không nhỉ?

 

Còn tôi ư, tôi còn nhớ cả khuôn mặt anh vừa chạy vừa vẫy tay chào chúng tôi khi chiếc xe lăn bánh rời Đà Lạt. Nhưng anh Quang ơi, anh thích ai trong hai đứa chúng tôi, chả lẽ anh thích…cả hai đứa, chả lẽ anh tặng hình màu, rồi bỏ thời gian “vô tình” gặp chúng tôi buổi sáng chia tay, mời đi uống sữa, ăn sáng, rồi xin điạ chỉ ở Sài Gòn, để muốn thăm… cả hai đứa??

 

Tôi lắc đầu, chẳng muốn nghĩ ngợi xa xôi, nhưng thật sự cầu mong “anh cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé”, để tôi mãi được thấy nhỏ Thuỷ bạn tôi xinh tươi “má đỏ môi hồng” khi nhớ về Đà Lạt, và để tôi giữa trời Xuân nắng hiu hiu của Sài Gòn, lòng vẫn phơi phới rạo rực, tiếp tục những vần thơ còn dở dang:

 

Tôi đến Đà Lạt một chiều Xuân

Bên thác Cam Ly dừng bước chân

Có ai theo tôi từng con dốc

Mai tôi về, Sài Gòn bâng khuâng!

 

– Kim Loan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.