Hôm nay,  

Mùa xuân đó, rất đẹp...

11/01/202308:51:00(Xem: 3041)
Truyện

IMG_3789


Bữa đó tôi bỗng nổi hứng… xí xọn đi làm móng tay móng chân để ăn Tết. Nhưng vì hoàn cảnh trại tỵ nạn, dụng cụ làm móng cũ kỹ, không đảm bảo vệ sinh, nên vài hôm sau, ngón tay trỏ bên bàn tay phải của tôi bị sưng mủ và hơi bị nhức. Lúc đầu cứ nghĩ từ từ sẽ hết, nhưng vết mủ ngày càng lớn, đổi màu và đau hơn dù tôi đã uống thuốc giảm đau. Thế là đành phải lên bệnh viện tìm bác sỹ quen, mới tá hoả, vì mủ đã làm hư hại vào thịt của ngón tay. Bác sỹ bèn ra lệnh khẩn cấp, làm tiểu phẫu ngay lập tức, cắt phần thịt bị hư, khâu vài mũi, rồi băng bó mới cho về nhà. Bác sỹ cũng dặn, tránh đụng vào nước trong vòng ít nhứt hai tuần. Nghe vậy, tôi rầu thúi ruột, Tết nhứt đến nơi rồi mà mang “thương tích” máu me, coi bộ xui xẻo, không may mắn chớ chẳng chơi.

 

Việc nấu ăn cho mấy ngày Tết thì không đáng lo, vì nhờ ngón tay bị băng bó, tôi có lý do chánh đáng đi mua sắm bánh trái mà không sợ bị mang tiếng là “cô Tám Đoảng”. Việc tắm rửa, tuy có chút bất tiện, cũng giải quyết được, nhưng khó khăn lớn nhất là giặt quần áo thì tôi chịu thua, vì tôi chỉ thuận tay phải, không thể giặt đồ với một bàn tay trái. Tôi đang nghĩ sẽ tìm một một bác lớn tuổi trong khu, nhờ làm giúp rồi trả tiền, thì thằng Tí , ở nhà sát vách, (có biệt danh là Tí Mỏ Nhọn, do chính… má nó đặt, vì cái miệng tà lanh, hóng chuyện, nói không lành da non của nó) báo với tôi:

 

- Chị ơi, em biết có một chỗ chuyện giặt ủi, để em dẫn chị qua.

 

Tôi theo nó đi lòng vòng qua mấy con hẻm quanh co của khu A, giữa buổi trưa mặt trời đứng bóng, cuối cùng cũng đến được dãy nhà sát hàng rào, gần bên khu tỵ nạn người Lào. Thằng Tí dừng lại, chỉ cho tôi tấm bảng bằng giấy các- tông treo lủng lẳng trên đầu nhà với hàng chữ đen viết hoa thiệt bự: “Nhận Giặt Ủi”.

 

Tôi tự hỏi, ai ở trại cần giặt ủi nhỉ? Như tôi đây, cứ thay phiên mặc mấy bộ đồ thun Cao Uỷ. Đi làm thiện nguyện thì tròng vào cái quần Jeans, còn bộ đồ để gặp phái đoàn là cái quần tây thun và cái áo thun sang hơn một chút, hiệu Cá Sấu, nên tôi chưa bao giờ xài bàn ủi. Tôi thật sự bất ngờ, dù rằng mấy năm ở trại, có rất nhiều nghề đã được bà con sáng tạo ra, để kiếm tiền sinh sống, và phục vụ nhu cầu của người tỵ nạn. Nào là làm bếp dầu, đèn dầu, đóng bàn ghế gỗ, làm bánh sinh nhựt, may quần áo, sửa giày dép, gánh nước mướn, nấu cơm tháng, cắt tóc gội đầu, làm móng tay, mát-xa, coi bói, Tết đến thì có bánh chưng bánh tét mứt dừa, mùa Trung Thu có bánh nướng, bánh dẻo mới ra lò ngay trong trại nữa cơ. Nhưng “giặt ủi” thì có nằm mơ tôi cũng không nghĩ đến, vì đó là nhu cầu quá xa xỉ ở nơi đây.

 

Thằng Tí thấy tôi ngẩn ngơ, bèn lên tiếng:

 

- Chị thấy em nói có sai đâu nà?!

 

Tôi hỏi nhỏ nó:

 

- Ủa, trong trại này mà cũng có người cần đi giặt ủi sao?

 

Nó vênh mặt, trợn mắt:

 

- Có chớ sao không? Ví dụ như… chị nè!

 

Rồi nó cười duyên:

 

- Em nghe nói mấy anh mấy chú độc thân, đi làm thiện nguyện bận rộn hoặc mấy thanh niên làm biếng, thảy qua đây giặt cho xong đó chị. Giá cả bình dân lắm, họ giặt bằng tay rồi ủi bằng bàn ủi than. Nhưng chắc chị là khách hàng phụ nữ đầu tiên đó!

 

Nói xong, nó gọi lớn vào trong nhà:

 

- Hello…? Có ai ở trỏng không, có khách giặt ủi đây!

 

Hình như có bóng người vụt chạy ra sau hè, thằng Tí nhanh như chớp rượt theo, (thiệt không hổ danh là thằng… nhiều chuyện). Tôi đứng chờ ngay giữa lô nhà, dưới một bóng cây khẳng khiu bên mấy lu nước. Lát sau thằng Tí đi ra, bộ mặt nghiêm nghị, lắc đầu:

 

- Ảnh nói ảnh không giặt ủi cho chị!

 

Tôi quá đỗi ngạc nhiên:

 

- Anh nào? Và tại sao?

 

Thằng Tí ngớ người ra, đưa tay gãi đầu, lại chạy biến ra phía sau nhà, rồi trở ra, cười cười:

 

- Vì ảnh là… học trò của chị.

 

- Học trò nào, lớp nào?

 

Thằng Tí lại chạy đi như con thoi, lại quay ra vừa thở vừa nói:

 

- Ảnh tên Hiền, đang học lớp vỡ lòng English của chị ở trường ESL đó.

 

Thì ra là thế. Thời gian đầu mới đến trại thì tôi làm trong bưu điện và dạy tiếng Việt cho các em nhỏ. Khi đậu thanh lọc chờ định cư, tôi chuyển qua làm cho văn phòng Cao Uỷ và buổi sáng dạy Tiếng Anh cho trường ESL. Vì là lớp Vỡ Lòng cho người lớn nên “học trò” của tôi có người già hơn cô giáo. Một số người là dân miền tây nam bộ, thật thà chất phác, giọng nói còn phảng phất mùi phèn ruộng, nói Tiếng Việt còn sai lỗi, giờ phải bập bẹ học English để chuẩn bị cho tương lai sau này trên đất nước thứ ba.

 

Hiền lớn hơn tôi vài tuổi, tính tình nhút nhát và hay mắc cở, hiền như cục đất, đúng với cái tên. Nghe nói nhà ở miệt Cà Mau, làm nghề đánh cá bữa đói bữa no, rồi “canh me” theo tàu vượt biên qua đây. Ở trại, Hiền là “con bà Phước” nghĩa là không có thân nhân nước ngoài tiếp tế, nên Hiền làm các việc lặt vặt kiếm thêm, như xách nước, đi lao động thuê, ai ngờ có cả “tiệm” giặt ủi này.

 

Hiền rất hiếm hoi nói chuyện với tôi, cũng chưa lần nào nhìn thẳng vào tôi trong giờ học. Nếu trong lúc giảng bài, tôi có kêu Hiền đứng lên trả lời câu hỏi, thì Hiền lí nhí, mắt nhìn đi chỗ khác (sợ cô giáo… ăn thịt hay sao á!).

 

Thế đấy, Hiền chưa bao giờ đối diện, nhìn vào mắt tôi suốt mấy tháng học, thì đời nào Hiền lại chạy ra gặp tôi trong một tình huống “phức tạp” và “nhạy cảm” như thế này? Tôi ra dấu cho thằng Tí đi về, nó chợt nhớ ra, hớn hở nói:

 

- À, ảnh có hỏi em tại sao chị cần giặt ủi, em liền kể đầy đủ sự tình cái vụ chị đi làm móng, rồi bị mủ, rồi lên bệnh viện gặp bác sỹ, rồi mổ ngón tay…

 

Tôi chặn lời nó:

 

- Tóm lại là sao, ảnh nói gì?

 

Thằng Tí cụt hứng, nhìn tôi ngại ngùng, nhe răng cười:

 

- Dạ, nghe xong, ảnh… hổng nói năng chi, nhưng coi bộ suy nghĩ mông lung lắm!

 

Giờ thì đến lượt tôi cụt hứng, rồi vỗ vai thằng nhiều chuyện:

 

- Thôi để chị tự lo được rồi. Cám ơn Tí Nhỏ Mọn, í lộn, Tí Mỏ Nhọn nhe! Mà nè, làm phiền em chịu khó chạy vô trỏng… lần chót, nói với anh Hiền là chị cám ơn, dù sao mình cũng đã đến đây làm phiền người ta.

 

Sáng hôm sau, tôi đến lớp ESL, là ngày liên hoan mừng Tết. Bình thường thì Hiền đã chẳng bao giờ nhìn thẳng vào tôi, sau cái vụ “giặt ủi” hụt ngày hôm qua, Hiền còn lạnh lùng phớt lờ tôi hơn nữa.

 

Cả lớp ăn uống, bánh kẹo, trái cây, nước ngọt, ca hát chụp hình tưng bừng, Hiền cũng cười vui theo nhưng vẫn né đối diện với tôi. Cứ lúc nào tôi nhìn Hiền là y như rằng Hiền đang “bận” nhìn… ngoài cửa sổ (tìm gì ngoài đó hổng biết!). Tôi không mắc cở thì thôi, chứ Hiền hà cớ gì chớ! Tiệc tan, có vài học trò nán lại, tặng quà Tết cho cô giáo, Hiền đi thẳng ra cửa, không thèm chào tôi một câu.

 

Tối giao thừa, đi lễ nhà thờ về, tôi thấy một hộp nho khô để ngay dưới cửa, và một tấm thiệp chúc Xuân của Hiền, với nét chữ vụng về (chắc đôi tay xưa nay chỉ quen quăng lưới đi biển đánh cá), viết những lời chúc đơn giản, không màu mè “hoa lá cành”, nhất là câu tái bút chân tình: “Cô Loan ơi, nếu chưa tìm được ai giặt đồ, thì đừng ngại mang qua nhà Hiền nhé, Hiền đã nhờ một bà bác làm giúp rồi, không sao đâu!”

 

Trời ơi, anh chàng học trò nhút nhát của tôi, đi học thì không dám nhìn cô giáo, tặng quà Tết cho cô giáo cũng phải lén lút (nhờ vào bóng tối… đêm ba mươi), giờ quay ra khuyến khích ủi an tôi “đừng ngại và không sao”.

 

Đồng hồ điểm 12 giờ đêm, cả trại vang lên tiếng đập nồi niêu xoong chảo thay cho tiếng pháo, mọi người chúc tụng nhau rộn ràng, ăn uống vui vẻ xôn xao. Trong lúc chờ đợi mấy người bạn chung phòng Cao Ủy đến cùng ăn bữa bánh ngọt trà nóng mừng phút sang mùa, tôi nhìn ngón tay còn băng bó của mình, không còn thấy “xui xẻo” nữa, mà ngược lại, tôi thấy cả một trời Xuân êm ái Tình Người mến thương nhau trên mảnh đất tạm dung này.

 

-- Kim Loan

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.