Hôm nay,  

Đêm trừ tịch, một mình

1/16/202310:34:00(View: 4008)
Tùy bút

le-tru-tich

Bính Thân là năm thứ 35 tôi đón giao thừa ở xứ người. Đêm trừ tịch là thời khắc tĩnh lặng và thiêng liêng nhất của một năm dài, cũng là lúc gia đình sum họp để tiễn đưa năm cũ và đón tiếp năm mới với hy vọng sẽ đến cùng với những điều tốt lành và may mắn. Trong hoàn cảnh sống đầy khó khăn nơi quê người không mấy ai còn tâm trí để cúng giao thừa mỗi năm. Và tôi, có lẽ là một kẻ không giống ai, cứ giữ tập tục này suốt 35 năm qua. Giữ gìn một truyền thống văn hóa đẹp để cho con cái không quên cội nguồn, hay để cảm tạ ân điển mà Thượng đế đã ban cho gia đình tôi bình an đến được bến bờ tự do sau một chuyến vượt biên hãi hùng với một chiếc thuyền mong manh trên biển cả đầy phong ba cuồng nộ. Cả hai lý do vừa nói đều đúng, chưa kể là vào những đêm trừ tịch tôi mới cảm được nỗi nhớ quê hương sâu đậm tới độ nào qua một nỗi nhớ mênh mang nhưng ray rứt, cùng một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng vô cùng. Suốt năm tất bật không có thì giờ suy nghĩ viển vông, chỉ chờ tới đêm cuối năm mới sống được những giây phút tâm hồn lắng đọng để nhớ về một quê hương khốn khó với biết bao nhiêu người thân còn ở lại. Khi xưa, ở quê hương, mỗi đêm giao thừa nhà nhà còn chong đèn và bày bàn ra sân để cúng. Nhang đèn xong, hàng xóm láng giềng chuyện vãn, chúc tụng nhau phúc lộc năm mới. Cái thời thanh bình đẹp đẽ ấy đã qua lâu lắm rồi. Ở quê người, cũng là thời khắc năm cũ bước qua năm mới, nhưng cái không khí thiêng liêng này chỉ mình tôi tâm cảm trong cô quạnh, hàng xóm da trắng chung quanh đều đã yên giấc nồng, đèn nhà đã tắt hết, chỉ còn đèn đường vàng vọt lung linh.

Chỉ vào những giờ phút trang nghiêm như giao thừa gia đình nhỏ của tôi mới tận hưởng hạnh phúc sum vầy bên nhau. Hai vợ chồng cùng chuẩn bị mọi thứ để bày ra cúng ngoài trời, ở trước nhà. Từ năm đầu tiên xa xứ con gái mới 7 tuổi cũng lăng xăng phụ giúp việc cúng kiếng, con trai mới hơn 1 tuổi quấn quít một bên. Khi hương tàn nến tắt, vợ con đã yên giấc, đứng giữa trời đất mênh mông tôi mới cảm nhận được sự đơn độc của con người trong cái tĩnh lặng của hư vô và tối tăm của đêm đen trải dài vô tận. Khi con gái lớn thêm, mỗi đêm giao thừa cháu mở băng nhạc xuân nên không khí gia đình thêm ấm cúng. Dọn vào ở căn nhà thứ tư này không lâu thì cả hai đứa con học xong đều có việc làm ở tận miền đông Úc nên ngôi nhà trở nên trống trải và thiếu vắng. Nhà chỉ còn hai người. Tết âm lịch ít có năm nào nhằm vào cuối tuần, nên như thường lệ, bà xã tôi chuẩn bị xong mọi thứ là đi ngủ để còn thức sớm đi làm sáng ngày mai. Vì thế, một mình tôi ở lâu hơn trong không khí tĩnh mịch buồn hiu mỗi đêm trừ tịch hằng năm. Nhiều lúc tôi cũng tự hỏi tiếp tục công việc này để làm gì? Nhưng hỏi cho có thôi, tôi thấy mình phải làm vì tôi cần có những giây phút cho riêng mình. Trước đã thế, nay ở vào tuổi “cổ lai hy” tôi càng cần hơn, ít nhất mỗi năm một lần, đắm mình trong tĩnh lặng như bước vào cõi chân như thật bình an để khi tỉnh thức thấy mình vẫn còn hiện diện trong cõi nhân gian, tâm thân chưa định nhưng thần trí cố kềm hãm được những xao xuyến để bớt vọng động. Thêm nữa, chính hai chữ trừ tịch có nghĩa đen là thay chiếu mới, ý nói sang năm mới hãy tìm cái mới tốt hơn, xả bỏ những cái không hay của năm cũ. Nhưng có buông được hay không những điều không là cơm áo hằng ngày. Nó là khát vọng của tuổi trẻ đã qua. Nó là những ước mơ không bao giờ thực hiện được để nuối tiếc thấy mình đã qua hơn nửa đường của một kiếp nhân sinh yếu đuối và nhỏ nhoi trong cái mênh mông vô tận của không gian và những vòng lăn chậm rãi nhưng nặng nề khủng khiếp của bánh xe thời gian.

Đêm trừ tịch tối đen, sâu thẳm mịt mùng. Năm thứ 35, vẫn một mình tôi đứng đây cạnh mâm hoa quả và bánh mứt cúng giao thừa bày trên chiếc bàn thấp. Hai ánh nến le lói không đủ sáng soi hết khoảng bao lơn nhỏ. Khói hương bay lên chậm rãi và nhẹ nhàng quá, như không đủ sức mang được nỗi buồn tư hương của tôi lẫn vào khoảng không gian trước mặt, một khối đen đặc quánh và khô cứng khiến cho cây lá bất động, im lìm và buồn bã. Ngôi nhà cuối đời này của tôi có mặt tiền hướng về phía bắc. Vào thời khắc trời đất giao hòa từ năm cũ sang năm mới, mỗi năm, như một thói quen, tôi thẫn thờ nhìn và gởi hồn về phương bắc. Quê nhà của tôi ở đó, xa cách muôn trùng tay không thể với tới nên tôi cứ ấp ủ trong tim để thấy gần gũi thân thiết hơn.

 

Truyện cổ có kể rằng, ở phương bắc xa xôi có một loài ngựa hoang gọi là ngựa hồ, bị săn đuổi phải sải vó phi về phương nam. Khi mùa đông đến gió bấc thổi về nam thì những chú ngựa tha hương ngẩng đầu hướng về phương bắc cất tiếng hí nghe bi ai và thê thiết. Tôi có khác chi loài ngựa hồ này, phải tránh họa diệt thân, đã chạy miết xuống tận nam bán cầu, nơi không còn đất để chạy thêm. Mỗi khi năm cùng tháng tận, vào đêm trừ tịch đen thẳm như thế này, ngựa hồ tôi không cất tiếng hí não nùng nhưng thấy lòng trùng xuống để hứng những giọt lệ không dám cho tràn mi.

Ai cũng có một quê hương để nhớ về. Một anh bạn thân bảo là tôi phải có một trái tim thật lớn mới đủ chứa được ba quê hương. Chắc hẳn là vậy. Chưa bao giờ tôi quên Hà Thành, nơi yên nghỉ thiên thu của ông bà tổ tiên, mảnh đất của cuống rún chưa lìa. Sài Thành rực rỡ nắng vàng của tuổi thơ tôi yêu dấu. Quê hương thứ hai của những mối tình học trò thơ dại rồi đến một thời thanh xuân ướp đầy thơ ươm đầy mộng, xôn xao điệu đàn tiếng hát nồng nàn say đắm. Vào trường Kỹ sư Công Nghệ, thế giới của những kiến thức kỹ thuật và phát minh cơ khí với đầy ắp hoài bão cho một đất nước phú cường. Nhưng Trời không chiều lòng người, lịch sử đã sang trang bi thảm để phải bỏ quê nhà ra đi, phiêu bạt đến chỗ cùng trời cuối đất. Đất lành chim đậu, nơi chốn bình yên và bao dung này bây giờ là quê hương thứ ba của một phận đời luân lạc, đã cưu mang tôi gần nửa đời người.

Các em cháu của tôi ở Hoa Kỳ tối mai mới đón năm mới. Cũng như tôi ở đây, giờ này, nơi ngôi nhà ấm cúng Bố Mẹ tôi để lại ở Saigon, chú em út của tôi cũng đang bày biện chờ cúng giao thừa. Bầy con đông đảo của gia đình lớn giờ đã tứ tán, ở nhà còn hai em trai và hai em gái. Từ ngày chú em thứ bảy bị bạo bệnh, em trai út trở thành người chăm nom việc thừa tự. Đứa em nhỏ tài hoa của tôi đã sống quên mình vì người thân. Tôi hình dung cảnh các em tôi đang bận rộn chuẩn bị đón năm mới ở trên sân thượng mát mẻ và ước gì tôi đang ở nhà. Bầu trời tối đen nhưng chung quanh lấp lánh ánh sáng của thành phố về đêm. Khi dâng hương và vái tứ phương chắc chú em “giàu út ăn, khó út chịu” thương nhớ của tôi sẽ dừng lại lâu hơn ở hướng nam để nhớ và thầm chúc phúc cho người anh đã nửa đời người sống kiếp tha hương. Tôi biết chắc như thế không phải vì có linh cảm. Đã nhiều lần em út tôi bất ngờ, thật đúng lúc, đọc vài câu thơ tâm đắc và nhắc lại hoàn cảnh sáng tác của nhiều bài thơ cũ của tôi mà hầu như tôi đã quên, chứng tỏ em đã dõi theo bước người anh phiêu bạt, không chỉ trong đời thường mà cả những lúc mơ mộng thơ văn.

 

Theo trí tưởng tượng, tôi rời sân thượng bước vào phòng thờ trang nghiêm mở đèn sáng trong đêm trừ tịch. Trên tủ thờ, Bố Mẹ tôi đang nhìn xuống đứa con yêu thương. Ánh mắt cương nghị của Bố tôi thật sáng, như ngọn hải đăng vừa chỉ lối vừa tiếp sức cho những tàu con mãi lênh đênh chưa quay về bến. Khuôn mặt hiền từ phúc hậu của Mẹ tôi ban cho các con của Bà lòng yêu thương vô bờ bến và sự chở che an ủi cho những trái tim mẫn cảm giống như Bà. Bức ảnh mới phục chế cách đây không lâu của em trai kế đang ở bên cạnh khung hình Bố tôi. Lần nào ngắm bức hình này tôi cũng xúc động muốn khóc, vì nhìn giống lắm, giống đến không ngờ đứa em ngang tàng nhất nhà của tôi. Tuổi thanh xuân của em tôi đã dâng hiến cho tổ quốc. Em đã làm một công việc cao cả là bảo vệ đất nước chống giặc xâm lăng từ phương bắc. Em ra đi không về, đã đền nợ nước và nằm xuống ở một nơi nào đó của chiến trường vùng tam biên vào mùa hè đỏ lửa 1972.

Bức hình mang lại thật nhiều cảm xúc này còn khiến tôi nhớ Cụ Tân. Thời đó, cách nay gần nửa thế kỷ, người mới hơn 50 tuổi đã được gọi là cụ, có lẽ do kính lão đắc thọ, một phong cách sống đầy tình người của xã hội miền nam lúc bấy giờ. Tôi quen cụ Tân khi tập sự ở Nha Trang bị Điện lực, xa lộ Biên Hòa. Cụ Tân làm họa viên, có nghề tay trái là lấy số tử vi được nhiều người nể nang và khâm phục vì cụ vừa kén “khách”, vừa bấm số thật thần tình. Lá số tử vi cụ lấy cho tôi có hai điều làm cho tôi lo nghĩ nhiều vì cả hai đều không hay. Thứ nhất là trong số anh em đông vui của tôi sẽ mất một người trong hoàn cảnh đau thương. Hai là tôi có số phải sống xa nhà, thật xa và rất lâu . Điều thứ nhất đã linh ứng, 4 năm sau tiểu đoàn của em tôi tham dự một trận ác chiến ở vùng ba biên giới. Thế trận khốc liệt và tiêu hao kéo dài nhiều ngày vì quân ta và địch ở thế cài răng lược. Cuối cùng, tư lệnh mặt trận cho B52 trải bom thí quân. Cả tiểu đoàn tan tác trong biển lửa, chỉ còn một mạng sống sót trở về, đó là người chiến sĩ mang máy truyền tin cho em tôi. Mười hai năm sau, tôi đã đưa gia đình vượt thoát bằng một chiếc thuyền nhỏ, và tôi đã đi thật xa, quá xa. 35 năm rồi xa nhà, xa quê. Cụ Tân làm công việc của một nhà tiên tri đại tài. Cụ nào có muốn đem tin xấu cho ai, chỉ nói lại những gì cụ thấy được trong lá số tử vi của tôi mà thôi. Vẫn biết là, theo vận nước nổi trôi, có hàng triệu người như tôi phải gạt nước mắt bước xuống thuyền bỏ xứ ra đi; và em tôi chỉ là một trong hàng vạn người “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”; nhưng đã nhiều năm qua đi, mỗi lần nhớ đến tôi lại tự nhủ giá mà mình đừng nhờ bấm số tử vi thì đã đỡ thấp thỏm lo sợ dai dẳng và mang hoài nỗi ưu sầu khó quên dù tuổi đời càng chồng chất.

Cúng giao thừa xong là đã bước chân lên thềm năm mới. Thêm một tuổi đời, mái tóc dày bềnh bồng ngày xưa giờ càng mỏng và bạc gần hết. Nói theo kiểu méo mó nghề nghiệp búa kềm, xương cốt giờ đã khô dầu và lỏng hết bù loong từ cổ xuống tới ngón chân nhưng trái tim vẫn còn đập rộn ràng lắm. Nó chưa chịu già, mà còn đập nhanh và mạnh hơn nữa mới là phiền. Vì thế mọi chuyện vui buồn đều được giữ kỹ lưỡng và ngăn nắp trong cái kho tàng kỷ niệm quí giá, ấp ủ những tình cảm thân thương và đáng trân trọng, xem như tài sản rất riêng tư dành dụm đến cuối cuộc đời ly hương. Cuối năm suy gẫm chuyện đời. Trong 52 tuần của năm vừa qua tôi đã có được ba tuần vui trọn vẹn khi tôi quyết định làm một chuyến viễn du đến tận xứ Cờ Hoa để hội ngộ với bạn học cũ. Từ cái xứ nhà quê được thiên hạ gọi là “miệt dưới” này, sau 18 giờ bay chúng tôi lần đầu tiên đặt chân đến xứ văn minh nhất nên đã choáng ngợp với nhiều điều mới lạ. Đây là một chuyến đi nhớ đời với một thời biểu bận rộn, có vội vã nhưng chan hòa niềm vui và cảm động qua sự đón tiếp chân tình của nhiều bạn đồng môn, thân hữu và gia đình. Trong 21 ngày ở Hoa Kỳ, chúng tôi đã vượt 13,300 cây số qua 6 chuyến bay nội địa, nam bắc, đông tây và ngồi xe xuyên bang gần suốt 6 ngày, đi qua hơn 2100 cây số, để đến thăm bạn bè và các thắng cảnh nổi tiếng. Phải nói là sự phấn chấn và thích thú đã giúp chúng tôi quên mệt mỏi trong suốt ba tuần lễ di chuyển không ngừng. Lòng tôi chan hòa niềm vui và xúc động khi được gặp lại Thầy Cô, các anh chị và bạn đồng môn, không còn chỗ cho những phiền muộn nào khác. Trong đêm trừ tịch vắng lặng này, lòng u hoài ôn chuyện cũ chợt nhớ lại một tình cảnh hơi khác lạ, nhắc lại cho đủ hương vị cuộc đời. Trước khi lên đường tôi gởi điện thư liên lạc với một bạn đồng môn đã hứa là sẽ đi dự đại hội nếu có tôi tham gia. Tôi đã gởi nhiều thư báo tin ngày giờ tôi đến Cali, trạm đầu tiên của chuyến Mỹ du nhưng không có hồi âm. Cuối cùng tôi đã điện thoại thăm bạn. Tính giờ giấc, chờ gần trưa ngày thứ bảy, giờ ở Mỹ, mới gọi sợ làm phiền giấc ngủ. Tiếng chuông điện thoại viễn liên vừa dứt là có người bắt máy. Nghe tiếng hello tôi mừng quá, xưng tên họ rồi hỏi thăm ngay. Bên kia ngần ngừ: “Ừ… Ừ, khỏe… Tôi đang bận tập thể dục, chừng 15 phút nữa gọi lại đi. Thôi, nửa tiếng gọi lại đi há!” Rồi gác máy ngay. Tôi chờ đúng nửa giờ sau gọi lại, không có ai nhấc máy. Chờ thêm nửa tiếng tôi lại gọi một lần nữa nhưng vẫn im lặng. Nhiều ngày sau đó tôi cố suy nghĩ nhưng không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ngày còn học Công Nghệ bạn tôi hiền lắm, và tình bạn của chúng tôi khá tốt. Người hiền thì sẽ hiền lành suốt đời. Theo biến chuyển tâm sinh lý của con người, về già người hiền nếu tiến triển tốt thì có thể tươi vui và linh hoạt chút đỉnh; còn đa phần sẽ càng hiền hơn, có khi quên hết nhiều thứ. Chẳng lẽ người bạn này thuộc về “đa phần”. Nếu thế thì mất vui!

Đầu năm mới, những chuyện “không cười nổi” thế này ta cũng nên buông xả, cười xòa một tiếng để lấy hên. Kể nghe chơi thôi, chứ tôi đã cầu nguyện cho bạn tôi khỏe lâu, đừng quên tôi, để lần tới tôi sang Cali bạn sẽ dẫn đi uống cà phê. Chắc bạn muốn hỏi tôi cầu khấn ai, tôi xin kể nốt để kết thúc bài khai bút đầu năm này, sáng mai gởi cho những người tôi quí mến đọc cho vui. Theo sự tin tưởng của người xưa, Thượng đế cử 24 vị thần thay phiên mỗi năm hai người xuống trần gian làm việc theo dõi sinh hoạt của nhân gian, khi hết nhiệm kỳ một năm phải về Trời báo cáo. Trưởng phái đoàn hai người ấy là quan Hành khiển, còn phụ tá là Phán quan. Quan Hành khiển của năm Mùi vừa qua là Tống Vương cùng Phán quan Lâm Tào vừa bàn giao công việc cho quan Hành khiển Tề Vương và Phán quan Tống tào, mới đáo nhậm cho năm con khỉ Bính thân. Trần gian rộng bao la. Thuở trước, các quan này hành sự ở xứ Việt. Từ ngày dân ta tản lạc, tị nạn cộng sản khắp năm châu chắc các Ngài đã có sự vụ lệnh và giấy phép hành nghề ở Úc, Mỹ, Pháp và các xứ khác. 35 năm rồi, khi đón năm mới, tôi không xin gì cho riêng tôi, chỉ cầu mong cho tất cả những người thân yêu và quí mến của tôi luôn an lành và hạnh phúc.

-- Vĩnh Ngộ

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.