Hôm nay,  

Hâm nóng tình già

29/01/202315:33:00(Xem: 4202)
Truyện

old couple

Chị Bông gởi tâm sự cho chị Ngân Bình phụ trách mục “Tình Chàng Ý Thiếp” của một tuần báo. Chị than thở chuyện tình cảm hai vợ chồng già nhà chị lúc nào cũng xung khắc cãi nhau. Ông ấy lát gạch vườn sau chỗ cao chỗ thấp làm chị Bông vấp ngã mấy lần đã không biết điều xin lỗi còn mắng vợ xớn xác. Chị Bông tiết kiệm ngân quỹ gia đình, ở nhà chuyên mặc đồ thừa của con gái thì ông ấy nói quần áo ngắn cũn cỡn, váy màu mè xanh đỏ như bà đồng bóng.

 

Chị Ngân Bình khuyên rằng tình vợ chồng bao năm đã cũ mòn rồi, như nồi phở để nguội mất ngon chị cần phải hâm nóng lại. Chị Bông bèn mạo muội gọi phone chị Ngân Bình để nghe lời khuyên cụ thể hơn:

 

– Hâm nóng tình già cách nào hả chị?

 

Chị Ngân Bình giải thích:

 

– Chị hãy làm một chuyến đi xa, nhân dịp này vừa thăm con cháu vừa tạo khoảng cách cho ông chồng chị cảm thấy trống vắng, thương nhớ chờ mong.

 

Chị Bông lo lắng:

 

– Nhưng kết quả ngược lại là chị… chịu trách nhiệm đó nha.

 

Đến lượt chị Ngân Bình lo lắng:

 

– Ủa, tôi đã giúp chị lời khuyên mà còn  chịu trách nhiệm là sao?

 

– Tôi thấy mấy ông già vắng vợ, xa vợ dễ ngả lòng lắm, chồng tôi được tự do một mình lỡ ông ấy ra vào mấy quán cà phê đèn mờ có mấy cô tre trẻ phục vụ thì tình vợ chồng nhà tôi chẳng hâm nóng mà cháy khét luôn đó.

 

Chị Ngân Bình tự tin:

 

– Tưởng gì. Bao năm qua chồng chị vẫn ngoan hiền thì làm gì dám “đổi đời” ghê gớm thế.

 

Chị Ngân Bình nói đúng, có lẽ tình vợ chồng mấy chục năm đã cũ mòn, đã giết chết tình yêu thuở thanh xuân nên người ta đối đãi với nhau không cần gìn giữ, không cần làm đẹp lòng nhau nữa. Đằng nào cũng là vợ là chồng, xung quanh vòng vây nào con cháu, nào tài sản tiền bạc, nào đạo lý, thân nhân họ hàng, bè bạn gần xa, những sợi dây vô hình buộc chặt cuộc đời họ bên nhau khó đứt lìa.

 

Chị Bông thèm được chồng trân trọng quý mến, thèm được chồng nâng niu yêu thương như thuở ban đầu, cái tình cảm đã mất đi từ lúc nào không hay sau mấy chục năm chồng vợ khi tuổi đời chồng chất. Nhất định chị sẽ hâm nóng lại tình gìa nguội lạnh theo lời khuyên của chị Ngân Bình, tình cũ sẽ làm cho mới lại, chị sẽ “đi xa” một khoảng thời gian để anh Bông thấy vợ là cần thiết.

 

Chị tuyên bố cho chồng bất ngờ xem phản ứng anh thế nào:

 

– Em sẽ đi tiểu bang California thăm con gái và cháu ngoại.

 

Anh chẳng ngạc nhiên, chẳng “xót xa” vì vợ sắp đi xa mà còn hào hứng tán thành:

 

– Phải đấy, phải đấy, bà nhớ con nhớ cháu muốn đi thì cứ việc đi.

 

Chị Bông chạnh lòng nghĩ thầm: “Đã thế tôi sẽ đi thật lâu cho ông biết thế nào là… tình xa nhé”. Chị mua vé máy bay đi California 2 tháng. Anh Bông vui vẻ chở vợ ra phi trường và dặn dò:

 

– Nếu tôi…  quên thì gần ngày về bà phone nhắc tôi ra phi trường đón nha.

 

Trời ơi, thì ra chồng chẳng chờ mong ngày vợ về sao? Ai lại có thể quên ngày đoàn tụ nhỉ? Chị Bông tưởng lúc chia tay sẽ bịn rịn lưu luyến. Nhưng anh Bông luôn miệng giục giã:

 

– Bà vào trong sớm đi cho thoải mái.

 

Rồi anh Bông hăng hái xách phụ vợ cái túi xách khi chị đứng xếp hàng chờ kiểm hành lý. Cứ làm như anh muốn tống một của nợ đi cho khuất mắt.

 

Chỉ có gia đình con gái là bất ngờ thôi. Con gái đón chị Bông về nhà và phân bày:

 

– Mẹ đột ngột đến thăm, con vội sửa soạn phòng không biết có thiếu sót gì không?

 

– Mẹ muốn làm bất ngờ cho con cháu vui mà, mẹ nhớ con cháu qúa nên đến thăm và ở hai tháng đấy.

 

Con rể cảm động:

 

– Thật vui khi có mẹ đến chơi, các cháu sẽ tha hồ vòi vĩnh bà kể chuyện và nấu nướng món nọ món kia.

 

Thế là một công đôi việc, vừa thoả lòng thăm con cháu chị Bông vừa tạo không gian khoảng cách xa nhà để nơi kia chồng sẽ nhận ra vắng mụ vợ già cũng trống trải biết bao.

Nhưng ở với con cháu mới được 5 tuần lễ chính chị Bông đã cảm thấy nhớ nhà, nhớ tất cả những gì liên quan đến đời sống quen thuộc hằng ngày của mình, chị nhớ khu phố mình ở, nhớ cả chợ búa thường đi mỗi cuối tuần. Chị Bông bảo con đổi vé máy bay về nhà sớm. Chị quyết định không báo cho chồng biết, chị lại muốn chồng bất ngờ, 5 tuần lễ xa nhau đủ cho chồng thấm thía nhớ thương.

 

Về đến phi trường chị Bông hồi hộp và sung sướng gọi taxi chở về nhà. Căn nhà thân yêu đây rồi, chị tưởng tượng khi cánh cửa mở ra chồng sẽ mừng rơn ôm chầm lấy vợ, chị sẽ cảm động rưng rưng nói một câu nũng nịu tình tứ:

 

– Em nhớ anh nên về sớm đó. Anh có nhớ em không?

 

Anh sẽ như ngày xưa lãng mạn ngọt ngào nói một câu đã xem trong phim ảnh hay đọc được trong tiểu thuyết:

 

– Những ngày không em đời anh là hoang vu sa mạc.

 

Nhưng không, anh Bông đứng sững sờ nơi cửa không thốt nên lời. Chị Bông phải lên tiếng:

 

– Anh kinh ngạc và chết lặng như vừa thấy người từ cõi chết trở về vậy hả??? Em, Bông đây mà, Bông của anh đây mà.

 

Bây giờ anh mới hồi tỉnh và hỏi một câu vô duyên:

 

– Sao bà về sớm thế?

 

Chị Bông chưa kịp đáp anh thêm câu vô duyên khác:

 

– Đi thăm con cháu thì ở lại vài tháng cho đã đời đi. Về làm chi…

 

Chị Bông biết tính “ăn ngay nói thẳng” của chồng, xưa nay nghĩ sao nói vậy không hình thức bề ngoài cho vừa lòng vợ nhưng chị vẫn cụt hứng. Nhìn nét mặt của chồng chị Bông nghi ngờ:

 

– Anh sao thế? Nhìn mặt anh như chưa tỉnh một cơn mê, cứ làm như em có tội với anh khi bất chợt về nhà sớm vậy đó.

 

– Chứ còn gì nữa.

 

– Trời ơi… Bộ anh có chuyện gì mờ ám hả? Hả?

 

– Tôi đang nghe những bản nhạc tình Bolero, bà về không đúng lúc.

 

Bây giờ chị Bông mới để ý lắng nghe tiếng nhạc vọng ra từ trong phòng, giọng Hoàng Oanh đang tha thiết năn nỉ ỉ ôi: “Chỉ hai đứa mình thôi nhé… đừng cho trăng nép sau hè… chỉ hai đứa mình thôi nhé… trần gian thanh vắng tứ bề…”

 

Chị Bông gắt:

 

– Nhạc gì thì cũng là nhạc, liên quan gì đến chúng ta?

 

– Có chứ. Bà bình tĩnh đừng tưởng tượng quá xa xôi, nghe tôi nói những lời chân thật từ đáy lòng đây. Nhờ bà đi vắng dài hạn tôi bỗng như anh chàng trẻ tuổi độc thân, chẳng nấu nướng gì cả, cơm hàng cháo chợ mà bà vẫn chê bai toàn là gia vị độc hại, bột ngọt, dầu mỡ muối đường không tốt cho sức khỏe ấy, nhưng lạ và ngon khác với cơm bà nấu. Tôi đã có những ngày tự do thoải mái, muốn ăn gì thì ăn, đi đâu thì đi, làm gì thì làm mà không sợ bị bà xía vô hạch họe cấm cản hay liếc dọc liếc ngang vào ra lẩm bẩm. Lúc nào rảnh nằm nghe những bản nhạc tình cảm Bolero tâm hồn tôi lãng mạn, ướt át chơi vơi cảm xúc. Đang mơ màng thế cho nên thấy bà đột ngột trở về, đứng lù lù nơi cửa tôi không… giật mình sao được.

 

Chị Bông giận hờn:

 

– Em hiểu rồi, thì ra anh đang quay về lứa tuổi hai mươi thương nhớ vu vơ đấy… “Chỉ hai đứa mình thôi nhé” bảo đảm là không có hình bóng của em, vì người ta chỉ thương nhớ những gì đã mất, còn những thứ đã đạt được trong tay như em đây có đi xa, đi vắng hay… tiêu đời luôn càng tốt phải không anh?

 

Anh Bông chẳng thèm dỗ dành vợ mà tỉnh bơ nói tiếp:

 

– Thí dụ ngày đó tôi không lấy được bà thì bà mãi mãi là người trong mộng của tôi. Tình yêu thời tuổi trẻ và tuổi già khác nhau xa, ngày xưa hai chúng mình cứ nôn nóng đòi làm đám cưới gấp, một ngày không có nhau là một ngày hoang phí. Nhưng bây giờ có khi vắng xa nhau một ngày là một ngày dễ chịu, dễ thương.

 

Anh xuống giọng tràn đầy tình cảm:

 

– Cám ơn bà đã vắng nhà mấy tuần cho tâm hồn tôi trẻ lại. Tóm lại lâu lâu mình cũng cần “chia xa” cho… tình gần nhau hơn.

 

Chị Bông khen:

 

– Em mới đi vắng vài tuần mà anh đã ảnh hưởng Bolero quá chừng, ăn nói lãng mạn hẳn ra. Có xa cách mới biết nhớ thương nhau, đó là mục đích của em, em sợ tình nguội lạnh nhạt phai nên đã hâm nóng tình già, tình cũ của chúng mình. Coi như em vắng nhà là đã tặng anh một giấc mộng thanh xuân, tuy ngắn ngủi nửa vời.

 

– Giấc mộng nào chẳng dở dang nửa vời, có bao giờ chúng ta ngủ mơ đầy đủ một câu chuyện đâu. Có bà bên cạnh là tôi trở về thực tế rồi, bây giờ tôi có nghe thêm hàng trăm bài nhạc tình Bolero mùi mẫn cũng chẳng chạnh lòng nổi, chẳng mộng mơ nổi. Để tôi đi tắt nhạc và chiều nay tôi khỏi lái xe đi ăn cơm tiệm, bà nấu gì tôi ăn nấy.

 

Chị âu yếm nói với chồng:

 

– Hôm nay em sẽ nấu cho anh một bữa cơm ngon sau 5 tuần lễ xa nhà nhưng không phải chỉ bằng thịt cá rau củ gia vị hành ngò. Đố anh biết là món gì?

 

Anh Bông tươi cười:

 

– Bà làm như bà là cô giáo và tôi là thằng học trò nhỏ của bà để bà “đố vui để học” hả. Tôi nghe bà nói hàng trăm lần rồi, bà nấu bằng tất cả tâm tình của bà chứ gì. Tôi hiểu bà từ đời nào, cũng như bà đã hiểu tôi từ kiếp nào. Cám ơn bà đã hâm nóng tình già, tuy cũ mòn theo thời gian nhưng nó vẫn còn đấy đi đâu mà mất.

 

– Nguyễn Thị Thanh Dương.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.