Hôm nay,  

Chuyện tuổi già

18/02/202312:43:00(Xem: 4946)
Tùy bút

sunset


Những ngày cuối năm âm lịch, bận rộn nhiều việc: dọn dẹp nhà cửa, trang hoàng bàn thờ, mua sắm, lo cúng lễ, chuẩn bị phong bì lì xì... nhưng tâm trí tôi vẫn nhớ về người anh thứ hai của mình. Tất cả tái hiện và trôi đi trong dòng nhớ miên man về những cái Tết đã qua trong đời từ khi mình có nhận thức lúc ở quê cũng như khi ra phố bên gia đình và mãi sau này khi làm ăn xa, đón Tết với vợ con.

 

Anh Hai qua đời ở tuổi 83 sau một cơn bạo bệnh vài năm. Dù là người luôn bi quan nhưng từ khi bệnh, anh sống lạc quan hơn và nhờ đó, kéo dài những ngày tại thế của mình với tâm thế nhẹ nhàng, vui vẻ. Những ngày Tết, anh thường nói đùa: “Với người già, khi nói mừng họ thêm một tuổi cũng là chia buồn họ vì giảm đi một năm sống, tức là tiến dần về cõi chết!” Tôi không biết anh đọc được ý này từ đâu hay tự nghĩ ra. Nói đùa nhưng là một sự thật thâm thúy!

 

Tôi quan sát mình khi bước qua tuổi 73 cũng là 74 theo “tuổi mụ” (tuổi âm lịch). Quan sát, thấy được gì? Bước đi chậm rãi hơn (một cách chủ động) vì không dám đi nhanh, sợ té ngã, xương sẽ khó lành. Làm việc gì cũng cẩn thận, chậm chạp hơn như cầm đồ thủy tinh sợ dễ rớt bể, (một việc làm hoàn toàn có ý thức). Cái phổ biến nhất là làm việc gì cũng muốn mau xong, việc này chưa xong muốn làm qua việc khác như chạy đua với thời gian cho kịp Tết, điều mà dân gian gọi là việc nọ xọ việc kia và trí nhớ không còn chiều mình như thời trai trẻ. Tôi luôn chống lại cái bất trị này của đầu óc, chống lại cái suy nghĩ mình đã già nhưng không thể.

 

Tả về người già, người ta thường dùng hình ảnh “đầu bạc răng long” hay “da mồi tóc bạc”. Việc này ở tôi là có thật, tóc ít dần đi, sợi tóc mềm so với thời trai trẻ và răng thì tùy người, có lúc “vô tổ chức kỷ luật” như bài hát “Răng đi tìm tự do” hồi xưa đã nghe. Da không còn láng (vì chất nhờn tiết ra ít dần), cũng không còn mùi thơm mà chuyển sang mùi khét như khét nắng và có người tuổi càng cao thì xuất hiện tàn nhang, đồi mồi khá nhiều.

 

Thị lực và thính lực cũng giảm đi. Người lạc quan thường cho rằng đây là sự an bài tuyệt vời của tạo hóa, mắt nhìn yếu và tai nghễnh ngãng để khỏi nghe/ thấy những chuyện “trái tai gai mắt” ở đời. “Đi vào hoàng hôn của cuộc đời, như đi vào vùng ánh sáng điều hòa, ít chói chang hơn, mắt khỏi bị lóa bởi những rực rỡ của bao ham muốn. Người ta nhìn mọi vật đúng với thực chất của nó”. Đây là nhận định về người sau 60 tuổi của một tác gia tôi sẽ nhắc đến ngay dưới đây. Đó là: Nhà văn Pháp, André Maurois (1885-1967), trong các tác phẩm của mình, viết về tuổi già, rất thích: “Kỳ lạ thay cái tuổi già! Không ai nghĩ mình sẽ già! Họa chăng là kẻ khác có thể già còn mình thì không. Cho đến một hôm gặp lại người bạn cũ của 30 năm về trước, thấy trên nét mặt bạn mình nét già nua tuổi tác, mới chợt giật mình nhưng cũng nghĩ đó là chuyện của bạn. Già đến với ta một cách từ từ, khó mà nhận biết”. (Trích dẫn bởi BS Đỗ Hồng Ngọc trong “Già ơi, chào bạn”). Tôi liên tưởng đến việc này khi, rất nhiều lần, gặp lại bạn cũ, học trò xưa, thấy nhiều người già đi, chợt nghĩ lại mình. Thì ra, mình cũng không khác gì họ!

 

Cách đây khá lâu, hồi cuối tháng 5/2008, tôi có dịp cùng vài anh bạn từ Nha Trang lên Phương Bối Am (Bảo Lộc) thăm nhà thơ Nguyễn Đức Sơn (Sơn Núi, Sao Trên Rừng). Câu chuyện giữa chúng tôi và anh kéo dài cả buổi, liên quan đến nhiều vấn đề nhưng anh vẫn lặp lại nhiều lần ý này: “Sống trên 60 tuổi là lời lắm rồi, tuổi càng cao thì lời càng nhiều!” Hồi đó, tôi mới 58 tuổi và anh đã 71. Bây giờ thì... tôi lời hơn anh lúc đó rồi!

 

Những ngày Tết vừa qua, đến chúc Tết bạn bè tuổi hàng 7, hàng 8. Câu chuyện xoay quanh vấn đề sức khỏe và tuổi tác, chúng tôi có nhiều mẫu số chung về biểu hiện của tuổi già, kể cả một anh bạn nhà văn ở xa gọi về thăm và chúc Tết. Tất cả đều có những bước chuẩn bị về thân, tâm, có một “kế hoạch già”, một “nghệ thuật già”nên họ biết hưởng thứ hạnh phúc trời cho kiểu “hưởng lạc dư niên” của người xưa. Mừng cho họ và mừng cho nhau dù rằng cũng có người không bằng lòng khi than van về những bệnh tật mang trong người và cứ coi đó là... độc quyền của họ!

 

Chuyện “trí nhớ không chiều mình” như nói ở trên thì không ai tránh khỏi, chỉ là kẻ ít người nhiều – trừ những người mất hẳn trí nhớ mà y học gọi là bệnh Alzheimer do sự mất dần các neurons (tế bào thần kinh) và synapsis (kỳ tiếp hợp trong phân chia tế bào) trong vỏ não và một số vùng dưới não. Chuyện cũ, kỷ niệm xưa được nhớ lại, tái hiện lại rất nhiều, rất rõ nhưng chuyện mới vừa thì lại quên. Quên món ăn trong bữa ăn hai ngày trước, quên tên phim truyện đang coi hay nội dung tập trước, quên con số, tên người mới vừa đọc... Nói chung “kính thưa các kiểu” quên! Có những việc mình quên, đem hỏi vợ, cô ấy kể vanh vách nhưng cũng có việc không nhớ gì và cô ấy nói rằng, chỉ nhớ sự kiện chứ không thể nhớ ngày tháng!

 

Già kéo theo bệnh, đủ kiểu bệnh, có những bệnh từ thời trẻ tiếp diễn và những bệnh do tuổi già đem tới. Việc chữa trị đáp ứng nhanh hay chậm còn tùy gặp thầy thuốc giỏi hay thể lực của bệnh nhân. Dù máy giặt cửa trước Electrolux “70 năm vẫn chạy tốt” nhưng vẫn không thể nào tinh vi và bền bỉ như bộ máy “người”, chỉ là do con người không biết giữ gìn, chăm sóc hay tu bổ thân thể mình nên tỉ lệ những người già mà khỏe không quá 10% trong độ tuổi của họ. Và, “khổ” trong tứ diệu đế của nhà Phật tập trung vào Sinh, Lão, Bệnh, Tử có hai yếu tố là lão và bệnh.

 

So với định nghĩa tuổi già của Liên Hiệp Quốc, người già là người có tuổi từ 60 trở đi thì tôi đã quá tuổi “vào già” hơn một giáp. Ơn Trời, tôi luôn được khen từ nhiều người khác nhau trong nhiều thời điểm khác nhau là tôi ít già hay “quá trẻ so với độ tuổi”. Gặp nhau ngoài đường, nhiều người đoán tôi nhỏ hơn từ 3-5 so với tuổi thật. Tôi tin là lời khen này không sai. Khi có em học trò cũ hỏi bí quyết, tôi trả lời thiệt lòng là tôi lo cho mình cả thân, tâm, trí. Thân là lo tập thể dục đều đặn, biết ăn uống kiêng khem theo lời khuyên của nhà dưỡng sinh và thầy thuốc. Tâm là biết sống lạc quan, suy nghĩ tích cực theo lời khuyên của những nhà nghiên cứu luật hấp dẫn (Law of Attraction), giao tiếp với người trẻ để hấp thụ tinh thần trẻ trung của họ kể cả chơi với cháu nhỏ. Trí là chống lão hóa của đầu óc qua việc đọc và viết, tìm tòi, tham khảo. Nếu liên tục, kiên trì thực hiện những việc trên, hiệu quả sẽ thấy rõ.

 

Người phương Đông hướng nội, người phương Tây hướng ngoại. Đó là điều ai cũng biết. Tiếng chuông chùa ngân nga, kéo dài trong thinh không của sáng sớm hay chiều tà khiến tâm hồn con người lắng lại trong lúc tiếng chuông giáo đường luôn giục giã, thúc bách khiến người nghe sôi nổi, năng động hơn. Đó cũng là lý do khiến người Âu Mỹ sợ già trong lúc người Á Đông mong già, nếu không, cũng làm ra vẻ ta đây già!

 

Hiện nay, thực tế là từ đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, trái đất thu nhỏ lại để trở thành một “làng hành tinh”, thế giới dần trở nên “phẳng”, người phương Đông học hỏi những tiến bộ về khoa học kỹ thuật của người phương Tây trong lúc người phương Tây đổ xô tìm về những thành tựu của nền Triết học và Tôn giáo phương Đông cổ đại. Đó là sự giao lưu văn hóa tuyệt vời, một thứ ân sủng tạo hóa dành cho chúng ta mà ít người nhận ra và khai thác. Do vậy, theo thiển ý của người viết, bước vào tuổi già, chúng ta phải biết làm việc, tập các môn thể thao, các động tác thể dục phù hợp độ tuổi để chống già, sống “an bần lạc đạo”. Chuyện ăn uống nên biết tiết chế so với thời trai trẻ vì các bộ máy trong cơ thể không còn đủ mạnh như ngày xưa. Tuy vậy, cũng không nên theo lời khuyên của người xưa trong sách Luận ngữ: “Thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du cũ” (七十而從心欲,不踰矩) vì ngày nay, nhờ tiến bộ của y học, tuổi thọ con người tăng lên rất nhiều, biết giữ gìn vẫn tốt hơn. Ngoài ra, phải biết nuôi dưỡng tinh thần và ý thức trẻ trung, năng động của người phương Tây, bỏ đi thói ù lì, an phận khi nghĩ mình đã già. Đó cũng là thuận theo Thiên mệnh. Làm được như vậy thì không lo ốm đau, chẳng lo chết chóc. Mà nếu phải chết cũng chỉ là hoàn thành quá trình làm người để sang một kiếp khác.

 

Chúc các bạn an hưởng tuổi già một cách vui tươi và tích cực nhất.

 

Nguyễn Hoàng Quý

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.