Hôm nay,  

Nếu tình cờ gặp lại

04/04/202309:57:00(Xem: 3908)
Truyện

alley-in-saigon

Tôi đứng ôm cặp sách nơi đầu đường con hẻm lớn, mặt hướng về ngã năm chờ đợi chuyến xe, không để ý phía bên phải tôi tiệm Minh Ký Trà Gia đang khách vào ra liên tục:
     – Cô bé đi đâu anh cho quá giang? – Một tiếng nói phía sau, tôi quay lại ngỡ ngàng và từ chối:
     – Em đi học xa lắm, mãi Quang Trung.
     Người lính trẻ tuổi bên chiếc xe Honda hỏi tôi, anh tự giải thích:
     – Anh thấy cô bé đứng đây từ lúc anh vào tiệm Minh Ký Trà Gia. Ăn tô mì và uống ly cà phê xong thấy em vẫn còn đứng đây.
     Tôi làm bộ bận rộn tiếp tục nhìn về hướng ngã năm để chấm dứt nói chuyện. Anh chưa chịu đi, thắc mắc hỏi:
     – Sao không đi xe lam? nãy giờ lỡ mấy chuyến xe rồi.
     Tôi ngượng ngùng khi phải nói:
     – Em đợi xe đò vì… vì… giá xe đò rẻ hơn xe lam.
     – Vậy hả? Thôi anh đi nhé. Mong xe đò mau tới kẻo em trễ giờ học.
     Anh đi về hướng ngã năm mà tôi đang dõi theo chờ xe nên phải nhìn anh cho đến khi hình bóng người xa lạ khuất vào đám đông xe cộ. Tôi cảm thấy thoải mái nhẹ nhõm cả lòng.
     Chập tối tôi đang mơ màng sắp chìm vào giấc ngủ chợt choàng thức tỉnh với những âm thanh khủng khiếp, tiếng la hét từ bên ngoài và cả trong nhà mình:
     – Cháy nhà! Cháy nhà! Các con ơi chạy ra ngoài!
     Cha mẹ tôi đang mang đồ đạc và bồng bế dắt díu các em tôi lao ra phía cửa, tôi chạy đến bên kệ sách chộp mấy cuốn truyện, mẹ tôi la lên:
     – Giờ này mà còn lo mấy cuốn truyện hả. Mau mau ra ngoài sân!
     Khi tôi ra tới ngoài sân đã trông thấy một vòm lửa đỏ sau nhà mình, ngọn lửa khổng lồ như con quái vật nuốt chửng những căn nhà. Thấy căn nhà của mình sụp đổ tôi bật khóc nức nở và thương xót những cuốn truyện mà tôi yêu thích chưa kịp mang theo. Xe cứu hỏa giập tắt đám cháy. Tổng cộng hơn 20 căn nhà đã thành tro bụi.
     Buổi sáng hàng xóm bắt đầu tìm về nền nhà của mình xem có gì còn sót lại không, tôi cũng thế, chỉ tìm thấy những đồng tiền xu mà tôi vẫn để dành đi học trả tiền xe đò đã cháy xám đen. Khi tôi từ trong đám tro tàn bước ra, mặt mày phờ phạc vì cả đêm không ngủ, vì sợ hãi, vì đau buồn thì gặp anh đang đứng trong đám đông người hiếu kỳ nhìn cảnh hoang tàn sau trận cháy, là anh chàng cách đây một tuần gặp tôi ở đầu đường khi tôi đứng chờ xe đi học, vẫn là chiếc xe Honda ấy hôm anh đi ăn mì Minh Ký Trà Gia. Anh cũng ngạc nhiên và vội đến bên tôi:
     – Lại tình cờ gặp cô bé. Nhà em cũng bị cháy hả?
     – Vâng, em vừa chui từ nền nhà đổ nát ra. Nhà em đó.
     Anh nhìn tôi có vẻ thương cảm:
     – Sáng nay anh đến Minh Ký Trà Gia ăn mì, nghe người ta bàn tán về đám cháy tối qua ngay con đường trong xóm này nên anh tò mò quẹo vào xem cho biết. Không ngờ  gặp cô bé trong hoàn cảnh này.
     Tôi ngại ngùng quay mặt đi, giấu hai bàn tay đầy vết nhọ của than củi sau vạt áo và tự hỏi không biết mặt mình có dính nhọ đen thùi lùi không? Anh hiểu ý và chào tôi:
     – Anh đi làm nhé.
     Để đáp lễ anh đã hỏi thăm mình, tôi hỏi thăm anh:
     – Anh làm xa không?
     Làm gần đây thì anh mới ăn mì Minh Ký Trà Gia nơi đầu đường xóm em chứ. Anh là lính của trường hành chính tài chính ở ngã Năm.
     – Thế thì em biết rồi, trường hành chính tài chính em vẫn thường đi qua.
     Từ đấy mỗi lần đi qua ngã Năm tôi đều nhìn khu trường hành chính tài chính với nhiều thiện cảm vì có “người quen” đang làm việc trong đó.
 
Quán cà phê nhà tôi đông khách nhộn nhịp nhất vào buổi sáng. Trước cửa quán là hàng bánh cuốn và hàng cơm tấm rất ngon, những lính tráng và nhân viên của các trại lính quân cụ, quân nhu, truyền tin… quanh đây thường đến ăn điểm tâm uống cà phê trước khi vào làm việc. Sáng nào tôi cũng phụ giúp mẹ, khi thì vào quầy pha cà phê khi thì bưng bê cho khách hàng. Khi tôi mang một ly cà phê sữa và một ly cà phê đen ra bàn số 8 thì… lại gặp anh. Anh “hành chính tài chính” và một cô gái trẻ đẹp đang ngồi bên hai đĩa cơm tấm sườn bì chả vừa được mang đến. Anh nhìn tôi rất ngỡ ngàng vì bất ngờ. Tôi cũng bất ngờ, run run đặt hai ly cà phê trước mặt khách và quay đi ngay để phục vụ những khách hàng khác và để giấu cảm xúc của mình. Lát sau anh và cô gái rời khỏi quán, tiền trả cà phê để bên cạnh ly cà phê. Rõ ràng anh muốn tránh mặt tôi.
     Nhưng một tiếng sau anh quay lại, chắc anh đợi giờ quán đã vắng khách. Tôi đang đứng trong quầy, anh đến bên tôi:
     – Cho anh ly cà phê đen như lúc nãy.
     Tôi vụng về hỏi:
     – Cà phê ngon nên anh quay lại uống ly thứ hai?
     – Cà phê nhà em làm anh đắng môi và đắng cả lòng, nhưng em cứ bán cho anh cái mùi vị đau thương ấy đi.
     Tôi pha cho anh ly cà phê đen nóng và gượng mỉm cười:
     – Em mời anh ly cà phê này...
     Anh cầm ly cà phê cho vào một thìa đường nhỏ và đứng tại quầy nhâm nhi để tôi phải tiếp chuyện anh:
      – Anh đã tình cờ gặp em hai lần và tưởng là không còn dịp nào gặp nữa vì anh thường ghé Minh Ký Trà Gia ăn mì buổi sáng, cố tình cùng giờ em đón xe đò đi học mà chẳng thấy em đâu, đi vào xóm em, anh mong là căn nhà em cháy sẽ được xây dựng lại và anh sẽ gặp em. Nhưng hình như nhà đã đổi chủ?
     – Vâng, cha mẹ em đã bán mảnh đất nhà cháy và mua căn nhà nơi mặt đường gần những trại lính này mở cửa hàng bán cà phê, thế nên sau vụ cháy nhà em đổi sang học buổi chiều, buổi sáng em phụ mẹ bán cà phê.
     Anh thẫn thờ:
     – Thì ra thế. Bỗng dưng em biến mất như một giấc mơ ngắn ngủi.
     Và anh thở dài:
     – Đã một năm, hôm nay lần thứ ba anh lại tình cờ gặp em mà ngậm ngùi không nói nên lời. Anh vừa có người yêu, là hôn thê của anh, cô ấy làm thư ký kế toán trong thành quân cụ, hôm nay anh cao hứng đưa nàng đi làm và ghé ăn điểm tâm cà phê... nhà em.
     Anh để ly cà phê đen còn dở dang lên quầy:
     – Chúng mình có duyên gặp gỡ nhưng duyên quá mỏng manh.
     Tôi im lặng mà nghe những xót xa trong lòng mình đang lên tiếng thở than. Anh giã từ:
     – Cám ơn em ly cà phê buồn.
     Tôi ngẩn ngơ nhìn theo dáng anh đi ra cửa, cầm ly cà phê của anh lên vẫn còn hơi ấm, không biết hơi ấm của cà phê còn lại hay hơi ấm từ bàn tay anh? Anh uống ly cà phê buồn và người pha ly cà phê này cũng buồn như anh. Tôi, cô bé 17 tuổi lần đầu tiên trong đời chợt cảm thấy bâng khuâng.
     Người lính hành chính tài chính ấy đã đánh thức trái tim mộng mơ của tôi. Tôi chưa biết tên anh và có lẽ anh cũng chưa biết tên tôi, cả 3 lần tình cờ gặp gỡ đều ngắn ngủi vội vàng chẳng ai hỏi tên nhau. Ngày ấy tôi đã ước mong biết được tên anh để ghi vào trang nhật ký gặp anh từ tuổi 16 đến tuổi 17, để ghi vào tim nhớ nhớ thương thương và giận hờn trách móc vu vơ. Đầu con đường trong xóm dẫn ra con lộ lớn bên này anh vẫn thường ngồi tiệm Minh Ký Trà Gia ăn mì, cuối con đường trong xóm dẫn ra con lộ lớn bên kia có quán cà phê nhà em, anh đã đi từ đầu đường trở lại nơi căn nhà cháy, giá mà anh đi nốt nửa con đường còn lại là đã gặp quán cà phê, là gặp em rồi, nửa đoạn đưởng chỉ vài trăm mét mà đã xa xôi chúng ta.

***
 
Qua rồi bao nhiêu mùa trăng của tuổi 16-17. Anh đã đi theo ngã rẽ đời anh, không hề gặp lại tôi cho tới biến cố 1975 thì đường đời xa càng thêm mịt mùng xa. Bây giờ thỉnh thoảng nhớ về quá khứ với người lính hành chính tài chính mà tôi đã tình cờ 3 lần gặp gỡ thì tôi chẳng mong cầu biết tên anh làm gì, nhưng nếu định mệnh cho chúng ta tình cờ gặp lại nhau lần nữa, lần thứ tư trong cuộc đời, dù tôi và anh bao nhiêu tuổi, dù gặp anh trong hội cựu chiến binh, trong hội người già hay trong viện dưỡng lão, chỉ để chào nhau, hỏi thăm nhau như hai người bạn cũ cũng đủ trả nợ cho nhau những cảm tình mới chớm nở đã vội tàn phai của thuở ban đầu.

 

– Nguyễn Thị Thanh Dương

(March 20, 2023)

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.