Hôm nay,  

Mình không ăn nó được đâu, tại vì mình thương...

26/04/202308:59:00(Xem: 3408)
Tạp bút

altar

Thầy ngồi trên kia, sau cái bàn rộng, chỉ có một quyển sách mỏng trước mặt và không thấy ông mở ra. Như thói quen, ông không viết bài, viết dàn bài trên bảng, phấn với bảng ít khi ông dùng tới, có thể tất cả đã được sắp xếp chuẩn bị chu đáo và có lớp lang trong đầu ông. Đúng vậy, ông vẫn từ tốn nói theo những ý nghĩ dường như vẫn có sẵn trong tâm trí. Ông nói không vấp váp, từ từ, lôi cuốn và thuyết phục. Ông có một « schéma » trình tự đi tới, đi tới không hề áp đảo.
     Cái giảng đường có thể chứa hơn 200 sinh viên. Nhưng từ độ có cái biến động lớn, rất lớn, thì số chúng tôi đi học còn lại chừng một nửa. Một nửa kia đã lang bạt đi đâu không biết. Nửa còn lại này thì loay hoay mãi chẳng biết làm gì hay ho hơn, nên đành quay lại với lớp học. Lớp học không chóng thì chầy sẽ bị giải tán hay đổi mới thôi, chúng tôi trở lại như níu kéo một cái gì còn may mắn rơi rớt lại, rồi có lẽ trước sau rồi sẽ mai một hay biến thể vô lường.
     Sinh viên không ngồi xa mà tiến lên phía sát bàn thầy, đám nào muốn nghe thì nghe, đám nào không lắng nghe cũng không hề gì. Ông thầy chúng tôi cứ nói. Ông nói một cách chu đáo. Thầy đang nói gì nhỉ?
     À, hôm nay ấy, ông giảng về duy thức tâm. « Duy thức tâm vô thường, là không có gì vĩnh hằng, có đó rồi mất đó ». Ông triển khai duy thức tâm qua: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý… Ông dẫn chứng một số sự kiện và ý niệm đi qua rất nhanh bằng ấy giai đoạn như một tâm điện đồ, như vừa có ý thức, vừa như tự phản xạ, rồi cho ra phán đoán và hành động. Những hiện tượng ra, đi qua ta như luồng ánh sáng. Cảm nhận biến chuyển, đổi thể, luồng ánh sáng ấy giúp ta thể hiện cách sống tự tại như thế nào, vui hay buồn là tùy theo duy thức tâm của ta. Duy thức tâm của người đời vui theo cảnh đời. Duy thức tâm của người hành đạo vui theo đạo.
     Duy thức tâm cũng thay đổi tùy từng người, tùy từng lúc. Có thể nội dung này tôi nhớ không chi tiết lắm, duy có điều tôi nhớ kỹ là bóng dáng trên kia, một ông thầy, vừa là nhà mô phạm, vừa là một ông thầy tu, một học giả và cũng là một sử gia. Sử gia Lê Mạnh Thát.

that
Sử gia Lê Mạnh Thát.
Ông gầy, bé nhỏ, da trắng xanh, ông mang dáng vẻ thư sinh miệt mài với sách vở, đặc biệt với sách cổ Trung Hoa và những tấm bia mộ cổ, những chuông chùa cổ, những bản khắc trong chùa chiền. Ông thông thạo chữ Hán, chữ Nôm và tự thông hành nhiều lần đi đi về về miền tây nam phần, miền trung trung phần, để tìm những thiền viện cổ để đọc và khảo sát những bản kinh cổ và cũ, rất xưa. Thầy say mê công việc khảo đính văn học sử, từ những chỗ mờ mờ sương khói, đưa ra chỗ minh bạch cụ thể, có văn bản rõ ràng và với tên tác giả đường đường chính chính, và đúng, ông ấy có một sở học sâu sắc và một kiến thức mênh mông. Trong cái thân thể nhìn như yếu đuối của ông, có một sự say mê trong tâm hồn, một sự uyên bác trong tri thức, và sự khiêm tốn trong cử chỉ, thái độ cùng ngôn từ điềm đạm.
     Trong đầu tôi, khi nhớ về thầy, như còn lảng vảng bóng dáng và văng vẳng đâu đây lời thầy đang đọc bài thơ Hoa Cúc của sư thầy Huyền Quang đời nhà Trần (1225-1258):
 
     Vong thân vọng thể dĩ đô vong.
    
     Thân thế nào hay có với không,
     Một giường lạnh ngắt kẻ ngồi trông,
     Giữa non năm cuối quên ngày tháng,
     Mạch tiết trùng dương cúc nở bông.
      (Đinh Văn Chấp dịch)
 
Ông không ngâm nga mà nằng nặng cứ như mất hút theo bông cúc đơn lẻ chìm lần vào khe núi. Ông thông thạo nhiêu ngoại ngữ. Sinh viên ở viện Đại học Vạn Hạnh kể với nhau rằng mỗi lần ông nhập thất, là khi ra ông đã học được một ngôn ngữ mới! Chúng tôi không thể nhớ được bao nhiêu thứ tiếng ông có thể đối thoại, đọc và viết. Ông kể là khi học hai ba ngôn ngữ, ta có thể đối chiếu và sắp xếp cạnh nhau cho dễ nhớ. Nhờ thông thạo ngôn ngữ, nhờ khảo sát, hiệu đính văn học qua các thời đại, ông tìm ra nhiều điều mới mẻ, mới mẻ là có một số bài thơ của các thiền sư đời Lý-Trần, hóa ra vô tình ông thấy ở trong thơ cổ đời Tống từ xưa.
     Điều này tụi sinh viên tụi tôi ngày ấy (1965-1966) không mấy thích, tuổi trẻ cố chấp và thất vọng. Đúng là không dễ thương với thầy, kể cả không có tinh thần văn học khai phóng! Khi nghe ông thổ lộ rằng ông đã gặp bài Thuật Hoài, Cảm Hoài của Đặng Dung trong thơ nhà Tống, một bạn sinh viên phàn nàn: “Trời ơi, nếu mà thầy cứ nghiên nghiên cứu cứu hoài với mấy pho sách cũ rì, thầy cứ tìm với hiểu hoài hoài vài cái mộ bia nghiêng ngả, đọc gõ mãi mấy cái đại hồng chung han han rỉ rỉ đó, thì có ngày bao nhiêu thơ hay của ta chạy về Trung Quốc hết ráo cả, văn hóa Việt Nam còn đâu?”
     “Đừng nói vậy mà mang tội với ông cha ta. Cái gì của ai thì thuộc về người ấy. Còn kho tàng văn hóa Việt Nam vẫn trụ đó, thầy đã tìm thấy nền văn hóa Việt Nam phát khởi rất sớm, từ thế kỷ thứ 5, hai trăm năm trước tấm bia ở Thanh Hóa. Ôi có cơ man là tư liệu văn học quý giá, thầy sẽ tuần tự trình bày với các em. Truyền thụ và cũng truyền thừa”.
     Thì cái gì của người, đành phải trả cho người. Không được tham lam như trẻ con. Phải công nhận, có nhiều sinh viên hễ đến nghe trực tiếp bài thầy giảng, là không cần khổ công học bài, không cần mua bài quay ronéo, tụi tôi có thể nhớ, ít ra là đến lúc làm bài thi cuối năm. Cũng có lần sinh viên nhận xét rằng khi giảng bài, thầy không nhìn tụi mình, mà cứ mải nhìn vào khoảng không. Cũng nhiều lần, thầy không nhìn vào khoảng không, mà lại cứ nhìn lên trần nhà, vẫn cái giọng từ tốn, êm đềm và thuyết phục. Thầy đang giảng về thuyết Nhân nghĩa của cụ Nguyễn Trãi.
    –  Này, đoán xem, tại sao ổng nói với tụi mình hoài, ổng hết ý, nên ông phải nhìn lên cao vu vơ, phải vậy không?
     – Ờ, có thể tại cứ nhìn cái mặt tụi mình hoài, ổng hết ý, nên ông phải nhìn lên cái quạt trần… cho đỡ nóng.
     – Ờ, Sài Gòn, à, Thành phố Hồ Chí Minh nóng thiệt!
     – Tụi bay nói sai bét, ông thầy mình, ổng đang theo dõi con thạch sùng trên kia!
     – Ờ, có thể đúng, chắc con thạch sùng đó đã có lần uống cạn dầu cây đèn chai ở bàn thờ tổ nên “chàng“ đang nghiên cứu nó đấy!
     – Đúng thế, nếu nó ra xa chỗ đó, hoặc nó vô tình rớt xuống bàn mình, “moi“ sẽ lượm nó mang lên tặng ổng.
     – Xuỵt! Ồn quá nhe, có im đi được không?
     Toàn là kỷ niệm, kỷ niệm của thời xưa, còn vớt vát trong thời cuối mài đũng quần trên ghế nhà trường, làm tôi liên tưởng trong tấm hình chụp sau này, lúc thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, thầy ngồi giữa thầy Thích Tuệ Sĩ và thầy Thích Đôn Hậu.
     Cho hay ông nghe ông bị kết án tử hình mà vẫn ngước mặt nhìn vô tư vào khoảng không, cứ y như là chuyện của ai đó, mà không phải là chuyện của ông. Chắc ông còn đang bận tâm tự hỏi xem tại sao người cộng sản Trần Văn Giầu cứ xăm xăm đả kích ông và bảo rằng thuyết Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là bắt nguồn từ lòng yêu nước, sao họ không nói luôn là Nguyễn Trãi chủ trương yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa? Ơ, mà tiếc rằng thời cụ Nguyễn Trãi, từ xa xưa đó, chưa có tư tưởng lẫn cái danh xưng xã hội chủ nghĩa! Vậy chớ người cộng sản dám nghĩ là ông cụ Nguyễn Trãi yêu nước, yêu luôn xã hội chủ nghĩa lắm, họ nhận tất cả rồi ném tất cả vào chuyên chính vô sản.
     Ngay như giáo sư Nguyễn Đăng Thục, một thời là khoa trưởng văn khoa. Giáo sư Nguyễn Đăng Thục giảng bài : « Đồng qui nhi thù đồ », Giáo sư giảng cũng rất mơ mộng với những ý mông lung, mông mênh trong cái tuổi già, an lạc thanh bình, vô thưởng vô phạt. Vậy mà lúc tiếp cận, đối diện với lớp trí thức vô thần cộng sản, ông sửng sốt viết bài tham luận đại ý là nhận định quan điểm Nhân nghĩa ấy là phát sinh từ ý thức hệ Nho học cởi mở.
     Riêng sử gia Lê Mạnh Thát thẳng thắn đi một lối riêng, ông vững vàng dẫn chứng những sự kiện văn học và xã hội của Trung Quốc, rồi gần hơn là của Việt Nam, từ ý nghĩ đến hành động, từ bản chất đến hiện tượng. Rồi ông kết luận chắc chắn rằng thuyết Nhân nghĩa của cụ Nguyễn Trãi bắt nguồn từ cái tâm từ bi của Phật giáo Việt Nam. Ông bảo vệ luận thuyết này cặn kẽ và chắc chắn như ông đã từng bảo vệ luận án tiến sĩ của ông 10 năm trước ở viện đại học Wisconsin, Madison.
     Trong con người dáng vẻ thư sinh ấy, tiềm tàng sâu ẩn tất cả bi trí dũng của đạo pháp, làm cho Trần Văn Giầu, Trần Trọng Tân đã ghét ông lại càng ganh ghét hơn. Chỉ có linh mục chủ trương tờ báo Đối Diện (trước 1975), dường như là linh mục Chân Tín, ngài nhìn ông bằng cặp mắt sầu vời vợi và lo lắng. Nghe kể có một ngày vị linh mục và thầy Trí Siêu cùng đứng trên lầu cao nhà nguyện giáo sứ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, hai người trao đổi vu vơ về cách viết bài tham luận của cộng sản mới đề ra. Rồi hai người cùng chợt nhìn bên kia tường nhà nguyện, dưới sân biệt khu thủ đô cũ, những toán lính Bắc Việt đang nối tiếp nhau đi, thao diễn cơ bản, một hai một hai. Vị cha hỏi vị sư rằng:
    – Thầy có biết vì sao người cộng sản họ thắng không?
    – Thưa cha, hình như là vì họ kiên nhẫn quyết tâm làm tất cả, tất cả những cái mà người khác không dám làm, không thể làm… kể cả không nghĩ tới!
     Trở lại vấn đề Nhân nghĩa bắt nguồn từ tâm từ bi, không sát sanh, yêu người, yêu muôn loài vật, là cội rễ của Phật giáo Việt Nam. Dẫn chứng lịch sử, một nhà Lý bắt đầu từ Lý Công Uẩn, làm vua được tám đời, đến vua Lý Huệ Tôn, ngài nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Ai cũng biết việc ông Trần Thủ Độ mưu mô, sắp đặt cho Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và được Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho. Nhà Lý dứt và nhà Trần khởi nghiệp từ đấy. Các tôn thất nhà Lý chống đối đều thất bại và bị chết  tập thể.
     Đến lượt Thủy sư Đô đốc, hoàng tử Lý Long Tường, ngài là con vua Lý Anh Tông, ngài cáo bạch tế lễ tổ tiên rồi bỏ xứ ra đi. Ngài là người tài trí, mưu lược và có lực lượng thủy binh hùng mạnh dưới quyền. Ngài có thể toan tính đảo lại tình thế Trần Thủ Độ. Nhưng, từ nội tâm, ngài hiếu thuận và từ bi hiếu thuận với đạo và từ bi với người. Nếu ra quân thế trận, đánh nhà Trần, chẳng những mang lại sát nghiệp cho mình, mà còn thêm bao nhiêu binh lính và dân lành sẽ chết oan mạng, điêu linh thảm khốc… Ngày ấy, ngài không muốn tạo ra một đại lộ kinh hoàng, mà ngài mang cái tâm từ bi bể sở ấy sang dựng nghiệp ở Cao Ly.
     Nhờ hiếu thuận và đức độ tài năng, ngài dựng nghiệp ở đất người và giúp Cao Ly đánh bại Hốt Tất Liệt, cứu nhân dân ra khỏi sự tàn sát rừng rú của quân Mông Cổ. Kể từ Lý Long Tường, nhà Lý được tôn làm vua ở Cao Ly được bốn đời. Lòng dân yêu mến, và một đời tổng thống, có lẽ là tổng thống Lý Thừa Vãn (?) (Theo sử liệu « Lý Thái Tông toàn tập » của Lê Mạnh Thát và Trần Ngọc Nguyễn Vũ, báo Viên Giác số 149).
     Trừ một Trần Thủ Độ hiếu sát, một cá nhân đặc biệt, các vua Lý, Trần thường mộ đạo, vui cảnh thiền, yêu thương dân như con, ngầm dậy dỗ giáo dục dân qua thơ văn, trong đạo lý và từ bi hỉ xả. « Thương người như thể thương thân » chớ đâu phải lấy binh đao mà mưu cầu danh lợi như cộng sản, « Đại tướng danh thành vạn cốt khô ».
     Đa số người thế hệ chúng ta, đi di tản như ngài Lý Long Tường. Nay đã đi qua hơn một nửa thế kỷ, có cái nhớ cái quên trong cuộc đổi đời. Nhưng có điều không ai quên là nếu có một cái áo từ bi và cái mũ bác ái trên mình, thì thế giới của chúng ta bớt hoảng loạn hơn nhiều như hiện nay. Điều này cũng chẳng ai ngạc nhiên, vì trong cuộc sống chung, niềm hạnh phúc của mỗi người đều như phát khởi từ sự tương quan giữa ta và người khác, giữa ngã và vô ngã. Chúng ta có sang hèn, giầu nghèo, sướng khổ khác nhau nhưng chúng ta cùng nhau cùng đứng chung trên một dòng sinh mệnh.
     Hiệu ứng cánh bướm tác động đều đều và không bỏ quên một ai trong vòng nhân, duyên và quả.
     Ôi thôi, nói xa vời quá, mình có phải thánh nhân đâu! Cũng chẳng phải con ông Khổng tử nữa mà lý giải cao xa.
     Thưa bạn, lúc ở chùa, có một cháu bé thích ăn chay, thích thiệt, chớ không phải bắt chước mọi người xung quanh. Cháu tố cáo rất vô tư là hôm trước, nó thấy anh nó ăn nguyên con gà nướng, chị nó ăn hết cả nguyên con cá salmon. Cô và chú nó làm hết một góc con heo sữa quay.
     Hỏi, thế thường cháu ăn gì?
     Cháu thích mì xào tàu hũ lá hẹ, tomate và célerie cần tây. Sau cháu ăn xôi vò, chè hoa cau hay chè đậu nước dừa, thơm và ngon. Hỏi, cháu không thích thịt gà, thịt heo sao?
     Bé lắc đầu rồi nhoẻn miệng cười: Mình không ăn nó được đâu, tại là vì mình thương!
     Chữ thương, em kéo dài phát âm, hơi ngộ nghĩnh thưư-ơơơng!
     Nhìn đứa bé biểu lộ tình cảm chân phương tôi nghĩ đó là vấn đề nội tâm, đơn giản là từ bi, là đường đi vào giới  thứ nhứt của tam quy ngũ giới, và đó là cũng là sở nguyện tâm đắc của thầy Trí Siêu khi nhận định về quan niệm Nhân nghĩa của cụ Nguyễn Trãi.
     Không hiểu sao Việt Cộng cái năm ấy nó lại bày ra cái hội nghị về Nguyễn Trãi làm gì để bắt mọi người phải cho ý kiến? Tôi cũng chợt giật mình, năm xưa tôi có viết một bài về Nguyễn Trãi, Tết năm Quý Tỵ nào đó! Tôi xấu hổ thiệt vì lúc đó viết, tôi đã cứ đi lòng vòng,  quanh co bên cạnh vấn đề, cứ vớ vẩn với cái vụ án “Lệ Chi Viên“ lẩm cẩm, hoang đường và tưởng tượng! Có lúc bịa đặt nữa mà cứ tưởng là mình viết đúng, viết hay!
     Thế cho nên, già cũng phải đọc, phải học, hôm nay học hơn hôm qua một điều, không thôi, rồi mình sẽ bị đào thải ra khỏi cái đầu và cái đời.

 

Chúc Thanh

(15/4/2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.