Hôm nay,  

Mẹ Tôi

12/05/202300:00:00(Xem: 3069)

Minh Họa  _ Đinh Cường
Minh họa - Đinh Cường

LTS: Đây là một bài cũ tham dự Viết Về Nước Mỹ của tác giả Lê Thị, là một bài viết rất dí dỏm về bà Mẹ bắc kỳ của tác giả, được bạn đọc yêu mến. Nhân ngày Mother’s Day, Việt Báo trích đăng lại dưới mục truyện ký về Mẹ, với lời chúc an lành đến cho những người Mẹ đã một đời tận tụy nuôi dạy con cái. 

* * * 

Từ New York, tôi bay về San Jose thăm mẹ. Trong bữa cơm tối, lòng tôi nặng trĩu lo nghĩ nên im lặng không gợi chuyện như thường lệ. Đã mấy tháng trời, ngày nào cũng bão tuyết, hàng họ ế ẩm, tiệm vắng không một bóng người. Khủng hoảng kinh tế lan tràn làm nhiều khách của tôi dè dặt, không dám ăn xài. Tôi về nhà hy vọng sẽ khuây khoả, để quên hết những phiền phức, để không khí ấm cúng gia đình xoa dịu những ưu lo đã khiến tôi khó ăn khó ngủ.

Mẹ tôi dọn một bữa cơm thật ngon, đầy đủ các món khoái khẩu cho thằng con tham ăn từ xa về thăm nhà. 3 tô canh, 3 món xào, ba món kho la liệt trên bàn, vậy mà lòng tôi cũng không hào hứng mấy. Đầu óc tôi không gạt bỏ được những con số ám ảnh, sắp đến ngày trả tiền lương thợ, rồi phải lo tiền nhà, tiền hàng..., đủ thứ chi phí mà tiệm thì ế như Chùa Bà Đanh.

Mẹ tôi ngồi nhìn tôi ăn không nói gì. Hôm nay mẹ không chọc ghẹo, không la mắng, không đòi tiền, cặp mắt bà xăm xăm đi guốc xọc vào chiếu tướng từng cử chỉ của tôi.

Ăn cơm xong, mẹ tôi lửng thửng đi vào phòng và gọi tôi đi theo. Cái tướng Mẹ đi chậm rãi, đôi vai gầy gập lại vì đã bao năm tần tảo buôn gánh bán bưng, cái lưng thẳng thanh tao thời con gái của mẹ giờ đây đã còng xuống.

Tôi theo mẹ vào phòng, mẹ bảo tôi ngồi xuống giường. Bà lục lọi tìm ra một cái túi giấy dày cộm đưa cho tôi. Bất ngờ và ngỡ ngàng, tôi mở ra coi. Trong túi có 5 xấp tiền một trăm đã được sắp xếp ngay ngắn. Tôi vừa mừng vừa ngạc nhiên, tôi chỉ ngó qua đã biết 5 bó ấy là $50,000.

- Mẹ đưa tiền cho con làm gì? Tôi hỏi.
- Mẹ biết con đang kẹt.
- Ai nói cho mẹ biết?
- Mẹ là mẹ con, nhìn cái mặt như cái bánh bao chiều của mày, Mẹ biết.
Tôi bật cười:
- Cám ơn Mẹ. Dạo này con gặp nhiều khó khăn, con không cho mẹ biết vì sợ mẹ lo buồn. Sao mẹ có nhiều tiền vậy?
- Tiền mẹ để dành và chơi hụi. Cầm lấy, đừng hỏi nữa.

Tôi cầm túi tiền của mẹ, vừa mừng, vừa thẹn. Thẹn vì lúc nào mẹ cũng chê mắng bảo tôi không phải là đứa con rượu của bà. Vậy mà bất cứ khi nào tôi không có lối thoát, mẹ tôi luôn là một ánh sáng trong đường hầm.

Ai cũng bảo tôi giống mẹ, nhưng lại thòng thêm một câu “con giống cha là nhà có phúc.” Tôi không biết mình giống mẹ hay giống bố. Nhưng nếu chỉ được một phần giống mẹ thì tôi đã quá vui. Chắc là tôi giống cái tính không sợ trời sợ đất, không sợ bị chê bai của Mẹ.

Tôi nhớ hồi ở bên Phi, tôi chưa đầy 12 tuổi. Sau khi ăn trưa, tôi nằm ngủ trưa trên cái sạp gỗ. Bên ngoài trời vừa nóng vừa ẩm, mồ hôi nhễ nhoại. Lũ ruồi như tìm được món mồi béo bở cứ thi nhau xông vào tôi chích lấy chích để. Mẹ tôi đang ngồi chuyện gẫu với một bà bạn. Một tay bà cầm cái quạt phe phẩy, một tay Mẹ cầm cái đồ đập ruồi cứ thỉnh thoảng là lại đánh cái đét vào đùi tôi để đuổi đám ruồi đang tấn công thằng con. Rồi vừa quạt đuổi ruồi Mẹ vừa chép miệng than thở:

- Thật là khổ. Tôi ra đi bỏ lại hết gia tài sự sản, bao nhiêu là nhà, là đất. Bỏ lại cả chục đứa con khôn ngoan của tôi. Ra đi tay không, chỉ đem theo mỗi hai đứa con xấu nhất và ngu nhất.

Tôi nằm im, tuy giả vờ ngủ nhưng trong đầu thắc mắc, đứa nào xấu, đứa nào ngu? Chị tôi là con lai, ai cũng khen đẹp. Còn tôi thì luôn bị mẹ chê là xấu nhất nhà. Tôi nực lòng nhiều lúc hỏi Mẹ, “Mẹ ơi trong nhà mình ai đẹp trai nhất?” Mẹ luôn nhìn tôi chép miệng, “Ối giời ơi, con mẹ ai cũng đẹp chỉ có mày là xấu nhất nhà.” Nói xong mẹ tôi lại bình thản cho heo ăn.

Hôm ấy, thời tiết nóng nực, tôi phải nằm trên cái sạp gỗ cọc cạch, cứng ngắc này, tôi cảm thấy bực bội. Tức quá không chịu được nữa, tôi vùng lên:

- Mẹ nói ai ngu, ai xấu?

Chả thèm trả lời, Mẹ cầm cái đồ đập ruồi đập cái phẹt vào vai tôi.

- Ngủ đi, nằm đó mà hóng chuyện.

Tôi đành phải nằm xuống giả vờ ngủ tiếp. Mà lòng còn ấm ức cho đến bây giờ.

Cầm túi tiền mang cất đi, tôi nghĩ chắc là tôi giống mẹ cái tính biết buôn bán, biết tiết kiệm? Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, mẹ chắc chắn có nhiều võ hơn tôi, nhiều nhà, nhiều của cải, nhiều con cái...

Lại phải nhớ tiếp cái ngày nghiệt ngã mà mẹ nói chuyện với bà hàng xóm bên Phi.

- Hồi còn ở ngoài Bắc, tôi làm rượu nếp bán chạy như tôm tươi. Có chút máu địa chủ từ ông bà để lại, có bao nhiêu tiền, tôi mua hết đất đai nhà cửa của mọi người bỏ xứ di cư vào nam. Nhưng rồi cuối cùng chỉ còn mỗi mình tôi trong làng. Cuối cùng tôi đành phải bỏ lại hết nhà cửa đất đai mang hai đứa con gái nhỏ và ông chồng binh quân vô nam, không tiếc của gì bằng tiếc ruộng với đất...

Bà hàng xóm vừa hớp trà vừa hỏi:

-Thế không bán được gì hết?

-Có ma nào ở lại mà mua, cả làng bán hết đất đai cho tôi rồi bỏ đi. Đồng không nhà trống chỉ còn lại mình vợ chồng tôi và hai đứa con, nên đành quẳng gánh vào nam thôi. Sau khi vô Nam, tôi bắt đầu gầy dựng trở lại, buôn hàng bán quán, cùng lúc đẻ thêm chín đứa con. Rồi cũng dành dụm đủ tiền bạc lại mua đất xây ngơi. Tôi xây căn nhà to đùng cao nhất xóm. Nhà 5 tầng lầu bê tông cốt sắt kiên cố. Mười mấy cái cửa sắt, bao nhiêu phòng ốc, một mình tay tôi toan tính, xoay xở, ông chồng tôi không ngó ngàng tới chuyện gì.

Bây giờ, cầm tiền của mẹ trong tay, tôi biết đây là món tiền bao nhiêu năm dành dụm của mẹ. Hơn mười đứa con, đứa lấy chồng lấy vợ, đứa mở nhà hàng, đứa mua nhà mới, đứa học lên cao, lúc nào mẹ cũng có tiền dúi tay cho từng đứa chúng tôi, tuy miệng mẹ lúc nào cũng la mắng chê bai lũ con, nào là làm biếng, nào là dài lưng tốn vải, chả thằng nào con nào giống mẹ.


Mẹ chê cũng đúng. Tôi còn nhớ hồi còn ở Việt Nam. Mẹ buôn bán cả ngày, chiều về thì chăm nuôi cả một trại heo. Mỗi sáng sớm khi cả nhà còn ngủ, mẹ đi gánh nước gạo, mang về nấu cám cho heo ăn heo mập. Chỉ một tay mẹ, từ 4 giờ sáng đến 12 giờ đêm. Tôi thấy mẹ chỉ “tranh thủ” ngủ lúc mẹ đang nhặt rau hay đang thái thịt.

Qua đến Mỹ, mẹ đi làm trong khách sạn, đi làm overtime, và đi học tiếng Anh. Muốn bảo lãnh các con, mẹ phải cần có tiền, phải lấy bằng được quốc tịch Mỹ. Hàng ngày mẹ học hành siêng năng không sót một chữ nào. Có chữ nào trong sách mẹ thông thạo chữ đó. Tuy mẹ không biết viết tiếng Anh, nhưng nghe chữ nào mẹ nhớ chữ đó, bà thầy giáo chỉ cần hỏi một câu “how are you?” là mẹ xổ ra một tràng “I am fine thank you and you? I have eleven children, five boys, six girls. I have been in America 2 years….”

Mẹ sẽ không ngừng nói cho đến khi bà giáo bảo mẹ dừng lại.

Đến ngày đi thi quốc tịch, Ba Mẹ và hai chị em tôi cùng vào một phòng thi. Vì không biết viết tiếng Anh, ba tôi quay sang hỏi “Mày chỉ cho bố mẹ với…” Thấy bà giám khảo đang ngồi soi mói, tôi nói “thì mẹ với bố cứ vẽ gà vẽ vịt vào, sợ gì.’

Bố nghe cau mày lại, còn Mẹ, ngồi không buồn bị thằng con thách đố, bà vẽ 2 con gà và 2 con vịt vào tờ giấy thi. Khi thi xong, họ nhìn và đánh rớt hết cả hai người. Mẹ chửi: “Cái thằng mất dạy, mày phá hoại làm nó đánh rớt mẹ, thế bây giờ làm sao bảo lãnh anh chị em mày?” Mẹ năn nỉ bà giám khảo, nói rằng mẹ không biết viết nhưng biết nói. Hay là bà thử hỏi một câu xem sao. Bà giám khảo hỏi mẹ một câu, “Who is the first president?” Mẹ trả lời, George Washington. Bà hỏi thêm một câu nữa trên đề thi. Mẹ trả lời xong, tự hỏi tự trả lời một lúc thêm mấy chục câu. Bà nói dừng lại mẹ cũng không dừng mà thao thao bất tuyệt đọc cho hết mọi câu mẹ đã học thuộc. Bà buồn cười và quyết định cho mẹ đậu quốc tịch Mỹ.

Thế rồi mẹ cũng bảo lãnh được cả đàn con sang ở với Bố Mẹ.

Bố tôi là một ông quan lớn khó khăn nhất trong nhà. Ông sẽ không ăn uống gì nếu mẹ không dọn sẵn mâm lên bàn cho ông. Ông có thể nhịn đói cả tuần nếu mẹ không có nhà hầu cơm rót nước. Mẹ thì việc gì cũng dám làm. Bố thì việc gì cũng ngại. Mẹ kể chuyện ngày mẹ đi lễ sáng và tìm thấy một em bé gái ở ngay bên cạnh đống rác. Tuy đã có 9 đứa con, mẹ nhất định mang em bé về nhà nuôi. Bố tôi phản đối kịch liệt, “Nó là con lai, bà nuôi nó ai cũng nghi ngờ tưởng bà có chửa hoang, gia thế mất mặt…” Ông nhất quyết nói “Nếu bà nuôi nó thì tôi sẽ bỏ đi.” Mẹ tôi thản nhiên dí cho bố tôi một túi đồ và một mớ tiền và tiễn ông lên xe lam ra đi. Sau khi đi một vòng tiêu hết tiền, chả biết làm gì, bố tôi lại quay về nhà và đành phải chấp nhận. Khi chị Lai lên 1 tuổi, chị luôn luôn ngồi trên vai bố tôi đi cùng khắp lối xóm.

Nhưng dù bố tôi có khó tính cỡ nào đi nữa, mẹ tôi cũng có cách trị ông. Có lần khi bố tôi say rượu, mẹ tôi mới dọn cơm lên bàn, bố tôi nhìn những món ăn không ngon ông quẹt hết xuống đất. Mẹ bảo chúng tôi tất cả ngồi xuống đất phủi bụi ăn tiếp. Bố tôi không biết làm sao cũng đành ngồi xuống đất. Sau đó ông lại giở trò đổ ly nước vào cơm. Mẹ tôi nói: “Này chú Ba, lần sau có muốn tôi không ăn thì nhanh tay hơn một chút, chứ chậm chạp như vầy tôi đã ăn xong no rồi. Đằng ấy muốn làm gì thì cứ làm, tôi đi ngủ đây.”

Bố tôi trong lúc say xỉn đưa tay lên định bợp tai mẹ, Mẹ nhanh nhẹn một tay đỡ, một tay nắm cổ ông, nhìn thẳng vào mặt ông, nói: “Nghe tôi bảo, đằng ấy không muốn ăn thì thôi, chứ đặt tay lên tôi thì tôi không nhịn đâu nhé!” Bố tôi xụi lơ, ngồi im thin thít. Từ đó không bao giờ dám làm dữ nữa.

Sau 75, mẹ tôi hay giễu “Bàn tay ta làm nên tất cả, với sức người sỏi đá cũng thành cơm.”

Mà quả đúng vậy, lúc mới qua bên Phi, đất sỏi cằn cỗi, khô khan. Trời nóng bức chả có gì để ăn, để uống. Mẹ đi đâu mang về được một cái cuốc. Lại một tay mẹ, mặt trời nắng gắt, mẹ cuốc những cục đá cứng, những lô đất khô cằn bỏ không, chỉ trong vài tháng mẹ đã biến nó thành vườn rau sum suê. Ai cũng đến mua rau của mẹ. Mẹ bán rau dành giụm tiền mở một gian hàng nhỏ buôn bán bên Phi. Đủ tiền sống qua ngày. Đến lúc mẹ sang Mỹ còn để dành được một mớ không ít.

Lúc nhỏ tôi không thấy mình giống mẹ mấy, nhưng càng lớn lên tôi càng mong muốn mình chỉ được một phần giống mẹ. Mẹ tôi chịu thương, chịu khó, rộng rãi, nhân hậu, nhìn xa, trông rộng. Mẹ tôi yêu chồng, thương con, bảo bọc cho tất cả anh em, cả dòng họ, lo lắng cả cho bạn bè của chúng tôi. Trong những giờ cầu nguyện, mẹ chỉ nguyện cho các con của mẹ nên người.

Bố tôi qua đời, ông ra đi bình an, nhẹ nhàng trong vòng tay của Mẹ. Còn mẹ tôi, một đời chịu khổ, bây giờ bà chỉ còn một mình, quanh quẩn trong nhà chờ các con về trò chuyện cho qua ngày.

Anh chị em chúng tôi mỗi người đều học được tính tự lập, tự trọng, nghiêm chỉnh của mẹ. Vì chúng tôi ai cũng muốn làm vừa lòng mẹ, ai cũng chịu khó, cố gắng vươn lên. Nhưng nhìn lại đời mình, tôi không thể nào so sánh với cuộc đời Mẹ. Chúng tôi không ai có được trí thông minh bén nhạy, cũng không ai có một quả tim bát ngát như mẹ.

Chỉ mong những chuỗi ngày còn lại của mẹ, anh chị em chúng tôi sẽ làm cho mẹ vui, làm cho mẹ cười nhiều.

Mẹ ơi, cái gói mẹ cho, thằng con xấu xí của mẹ đã phá hết lâu rồi. Coi bộ làm ăn chưa có mòi khá lại. Nó cũng biết khi đọc bài này mẹ sẽ chửi “bố cái thằng mất dạy.” Và cười.

Lê Thị
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.