Hôm nay,  

Trang Thơ -- Ngày Lễ Cha

17/06/202321:05:00(Xem: 3511)
Fog 48x48 2006
Tranh Nguyên Khai.



Từ “Cha” chỉ là một tên gọi khác của lòng yêu thương. (Fanny Fern)


Vâng, Yêu Thương. Hai chiều ưu ái của tình phụ tử, lời cha dạy dỗ con, lời con kính ái thương nhớ đến cha, qua thơ của các tác giả Louise Glück, Phạm Thiên Thư, Đỗ Hồng Ngọc, Thành Tôn, Nguyễn Hồi Thủ, Ngu Yên, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Đức Cường, Nguyễn Thị Khánh Minh, Ko Un, như một quà tặng gửi đến tất cả những người Cha trên quả đất này nhân dịp Father’s Day. (NTKM)

 

***

 

LOUISE GLÜCK

 

Hóa Thân

 

1. Đêm

 

Thiên thần cõi chết bay

la đà trên giường của cha tôi.

Chỉ mẹ tôi nhìn thấy. Mẹ và cha

đang ở riêng cùng nhau trong phòng.

 

Bà cúi xuống để chạm vào

tay ông, trán ông. Bà đã

quá quen với việc làm mẹ

đến nỗi giờ đây bà vuốt ve xác thân ông

như bà vuốt ve những đứa con khác,

đầu tiên thật nhẹ nhàng, rồi

dần quen với đớn đau.

 

Chẳng có chi khác biệt.

Ngay cả cái đốm đen trên phổi

đã luôn luôn ở đó.

 

2. Hoá thân

 

Cha đã quên tôi

trong cơn phấn khích về nỗi chết.

Giống như một đứa trẻ bỏ ăn,

ông không còn nhận biết bất cứ điều gì nữa.

 

Tôi ngồi bên mép giường của ông

trong lúc sự sống xoay vòng quanh chúng tôi

như vô vàn gốc cây bị đốn hạ.

 

Một lần, trong một sát-na

nhỏ nhất, tôi ngỡ

ông đã hồi sinh;

rồi ông nhìn tôi

như một người mù nhìn chòng chọc

vào vầng dương kia, bởi

bất cứ điều gì nó có thể làm cho ông

đã an bài tất thảy.

Rồi khuôn mặt bừng đỏ của ông

quay lưng lại với giao ước.

 

3. Cho cha

 

Con sẽ sống mà không có cha

như con đã một lần

sống mà không có mẹ.

Cha nghĩ con không nhớ điều đó ư?

Con dành cả đời này để khắc cốt ghi tâm.

 

Giờ đây, sau quá nhiều đơn độc,

cái chết không còn làm con sợ hãi,

chẳng phải cái chết của cha, cũng chẳng phải của con.

Và mấy từ đó, lần cuối cùng,

chẳng còn sức nặng gì với con. Con biết

yêu thương mãnh liệt luôn dẫn về đớn thống.

 

Xin hãy một lần, xác thân cha đừng làm con khiếp sợ.

Thảng hoặc, tay con khẽ lướt trên mặt cha,

như một chiếc khăn lau bụi.

Giờ đây điều gì còn có thể khiến con bàng hoàng? Con cảm thấy

không lạnh lẽo nào là không thể cắt nghĩa.

Áp vào má cha, bàn tay con ấm áp

và tràn nỗi dịu dàng.

 

Linh Văn dịch.“Metamorphosis” – Từ tập thơ “The Triumph of Achilles” (1985)

(Vanviet.info)

 

*

 

NGU YÊN

 

Trên cành mộc lan

 

Cây Mộc Lan hoa trắng trước nhà nở ra tổ chim, một bầy nhụy kêu ríu rít.

Cha bay mây sớm, mẹ bay nắng trưa, thay nhau mang mồi về xây dựng phiền hà hạnh phúc.

Tất cả thực tế đều giống huyền thoại khi không thể đến gần.

Dù những chiều mưa không như nhau, nhưng nỗi buồn sẽ ướt cánh chim nhỏ.

Sao hoa Mộc Lan không đỏ?

Lớn gấp chục lần hoa ổi mẹ trồng

nhưng không có trái ăn.

Mẹ rỉa lông mỗi ngày mỗi rụng, dành dụm thành giường êm cho con nằm.

Cha nhìn trứng chưa nở có bao giờ tự hỏi mai này mưa hay nắng?

Hương Mộc Lan thơm nồng nàn.

Mẹ đẹp nhăn dần theo hoa rụng.

Ai chẳng muốn con mau lớn khôn?

Rồi thương xót khi con khôn lớn.

 

Đó là một buổi xế chiều:

Mặt trời thường xuyên cô độc cảm thấy cô đơn.

Chim già trở về tổ

mồi dở dang

không còn nhụy nào mừng rỡ.

Nắng tàn vốn đã buồn

sao trời lại thêm mưa?

 

Cây Mộc Lan lại nở hoa trắng.

Thời gian đục tổ chim những lỗ hổng tả tơi.

Những lỗ trống nhìn thấy trời xanh

mà bên trong chồng chất nhiều thương khó.

 

*

 

THÀNH TÔN

 

Nói Với Con Gái

 

1.

Con thức dậy cùng con chim sẻ non hé mồm trên mái hiên
Con nhện rề rà chăng lưới dưới chiếc nôi đung đưa
Bóng tối thẹn thùng giấu mặt
Nước đái con tinh khiết chan hòa
Con thức dậy cùng lúc con mèo thì thầm cùng con chuột nhắt
Con chó con đùa bỡn với chiếc đũa bếp
Bà nội đang vo nước gạo trong xanh vào lòng thau trắng
Mẹ nhóm đốm lửa hồng cho một ngày rực rỡ.

         

2.

Con thức dậy với đôi mắt dịu dàng của tuổi thơ cha không có
Đôi má mũm mĩm của ấu thời mẹ đánh rơi
đôi môi hồng hào ngọt dịu của thiên thần bỏ quên đêm hợp cẩn
đôi tay hào hoa vẽ vào chân không vùng trời ảo tưởng
đôi chân son thì thào gió sớm
Con thức dậy và nằm đó cùng mặt trời
Con hãy khóc lên cùng với ngày rạng rỡ
Con hãy cười cùng ánh sáng ngụy hình
hãy khóc, hãy cười cùng bà, cùng mẹ đi con.

           

3.

Cha cũng thức dậy trên chiếc giường đung đưa của bệnh xá
Trong khi những người bạn chuyền tay cây súng lạnh vọng canh ngoài
Đúng lúc tiếng súng ì ầm cùng với đất
Cha thức dậy cùng quê hương ta chan hòa máu đỏ.

         

4.

Con thức dậy cùng cha
Thức dậy cùng cha
Thức dậy để quê hương ta cùng thức.

 

*

 

ĐỖ HỒNG NGỌC

 

Những bài thơ về La Ngà

 

La Ngà 1

 

Ba không mê tín dị đoan
Không tin đồng tin bóng
Con hãy hiện hồn về
trong vi tính
Để trò chuyện cùng ba
Giữa đêm thanh vắng…

 

La Ngà 2

Ba viết trăm lần lý lịch
Cứ mỗi lần viết đến tên con
Ba lại ngẩn ngơ
Như một kẻ mất hồn
Biết trả lời sao
Câu hỏi
Hiện con đang làm gì?
Ở đâu?

 

La Ngà 3

 

Mỗi năm
Mỗi người
Thêm một tuổi
Chỉ mình con
Mãi mãi
Tuổi đôi mươi…

 

La Ngà 4

 

Ba vun gốc trường sanh
Mẹ đặt chùm vạn thọ
Lên mộ con
Giữa ngày Mùng Một Tết

 

La Ngà 5

 

Ba dạy con
Mỗi ngày
Một chút

 

Không bài học nào
Như ba đã học
Từ con:

Nỗi mất!

 

(La Ngà, cô con gái yểu mệnh của nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc).

 

*

 

NGUYỄN HỒI THỦ

 

Thơ viết bên hồ

(Trích đoạn 11)

 

Đi trên đê La Thành

Dưới hàng cây xanh

Tôi nhớ đứa con vừa tròn mười bốn tháng

Ở bên kia trái đất

Con tôi đang tập nói:

Con chó con mèo

Cái bánh cái kẹo

Và những thứ ngôn ngữ riêng của nó

Tôi bế nó lên ngực

Nó hay lấy tay chỉ vào chỗ quả tim tôi

Gọi “bố”

Tôi ước ao được bế con tôi

Đi trên đê La Thành

Đi mãi mãi dưới hàng cây xanh

Như một cái gì còn sót lại

Của cuộc đời vừa đánh mất

*

 

PHẠM CAO HOÀNG

 

Cha Tôi

 

và bài thơ tôi viết đêm nay

là bài thơ sau bốn mươi năm

kể từ hôm vượt đèo Ngoạn Mục xuống Sông Pha

chạy ra Tuy Hòa

trở vô Sài Gòn

và nhận tin cha tôi đã chết

ông qua đời khi chiến tranh kết thúc

để lại trần gian nỗi nhớ khôn nguôi  

để lại đàn con trên quê hương tan tác   

để lại trong tôi vết thương mang theo suốt cuộc đời

 

bốn mươi năm rồi con vẫn nhớ, cha ơi!

ngày mùa đông cha mặc áo tơi ra ruộng

ngày nắng lửa cha gò mình đạp lúa

những sớm tinh mơ cùng đàn bò lầm lũi đi về phía bờ mương

rồi mùa thu cha đưa con đến trường

con thương ngọn gió nồm

mát rượi tuổi thơ những ngày đầu đi học

đi ngang qua Duồng Buồng (*) bọn nhỏ trong thôn vẫn thường trêu chọc:

chiều chiều ngọn gió thổi lên

học trò Thầy Bốn chẳng nên đứa nào

thương cha một đời lận đận lao đao

cầm lấy chiếc cày để tay con được cầm cuốn sách

thương chiếc áo cha một đời thơm mùi đất

thương đất quê mình thơm mãi mùi hương

rồi mùa thu cha đưa con đến trường

con thương những con đường

cha đã dẫn con đi về phía trước

con vẫn còn đi sao cha đành dừng bước

bốn mươi năm trời con thương nhớ, cha ơi!

 

(*) Duồng Buồng: tên một lối đi trong thôn Phú Thứ (Tuy Hòa, Phú Yên).

 

*

 

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

 

Nhớ Cha

 

Một mình. Đọc kinh đêm nay

Tiếng chân cha ở cuối ngày âm vang

Ngồi đây lắng hết đêm tàn

Con nghe cả nỗi dặm ngàn. Cha đi…

 

*

 

NGUYỄN ĐỨC CƯỜNG

 

Cha

 

Khi những làn sương muối,

Pha màu trên tóc Cha,

Như ngàn cơn sóng bạc,

Trườn lên miền biển cả.

Khi thời gian đọng lại,

Nếp chùng gương mặt Cha,

Như nẻo đường thơ ấu,

Một thời con đi qua.

Là khi con lớn lên,

trong niềm tin nguyên vẹn,

lòng bâng khuâng hò hẹn,

cùng mơ mộng không tên.

Nhưng đời như lưới nhện,

giăng từ buổi ban sơ,

Nhưng đời như mũi tên,

chờ con tự bao giờ…

 

Làm sao đau đòn roi,

Cha cho con tuổi nhỏ.

Làm sao buồn cơn giận,

Cha cho con ngày thơ.

Khi lưng con đã hằn,

ngọn roi đời khôn nguôi.

Và khi con mất hẳn,

lòng bao dung của người.

 

Ôi! Lời Cha sớm trưa,

vang lừng trong trí nhớ.

Xưa ghi vào trang vở,

nay ghi vào nắng mưa…

Khi bao điều nghĩa nhân,

chỉ là ngôn ngữ lạ.

Khi bao người biển lận,

hóa thân là thiên thần!

 

Dù thời gian qua mau,

con mãi là trẻ nhỏ,

con mãi là ngọn cỏ,

làm sao choàng núi cao.

Con mãi là chim non,

làm sao qua hết biển.

Con muôn đời bé mọn,

làm sao vào Vô biên …

 

(Tuyển Thơ Chân Dung)

 

*

 

PHẠM THIÊN THƯ

 

Động Hoa Vàng

(Trích đoạn 95)

 

Nhớ cha giọt lệ khôn cầm
Dưới trăng lấp lánh như trâm vân quỳnh
Nghiêng ly mình cạn bóng mình
Tay ôm vò nguyệt một bình mây bay

 

*

 

KO UN

 

Đêm Thu

 

Cha ơi

Cha ơi

 

Một con dế đang hát…

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.