Hôm nay,  

Chuyến Đi Xa

04/08/202300:00:00(Xem: 3875)

 

tranh ann phong
Tranh Ann Phong- Dark Occean, mixed media,2014
(Collection of David Hai Goetz)

 

Đừng đứng trước mộ tôi mà than khóc.

Tôi không ở đó, tôi không ngủ,

tôi là ngàn cơn gió vỗ,

là hạt kim cương óng ánh trong tuyết,

là mặt trời lấp lánh ngọn lúa vàng,

hạt mưa thu nhẹ nhàng lời ru.

 

Khi người thức giấc trong ban mai tĩnh lặng

tôi xôn xao, xào xạc không trung

nơi bầy chim lặng lẽ nối đuôi khoanh tròn.

Tôi là vì sao dịu ngọt,

tỏa sáng màn trời đêm.

 

Đừng đứng trước mộ tôi mà giàn giụa.

Tôi không ở đó, tôi không chết.

                         – Mary Elizabeth Frye

 

Kể từ ngày nghe tin em, tôi chưa một lần tìm đến thắp nén hương cho Kim Yến. Có lẽ với tôi, em không thật sự ra đi. Hôm nay tình cờ đọc bài thơ này, tôi như nghe tiếng em nói, em cười. Đâu đó trong cuộc đời này, em vẫn hiện diện trong mọi vật thể, và nếu chúng ta có một điều gì đó để tin tưởng, tôi tin rằng em đã không chết.
 
*
 
Chúng tôi lái xe dọc theo Pacific Highway đến một điểm hẹn nơi hai chị em lần đầu gặp nhau. Trời vàng óng, nắng chiều đậu trên mái tóc ngắn bướng bỉnh soi rõ một nửa khuôn mặt em cương nghị với cặp mắt sáng, đen nháy, luôn mở lớn quan sát cuộc đời. Đưa tay vặn âm thanh xuống khi Khánh Ly hát đến đoạn “Tại sao ta sống chốn này, quay cuồng mãi hoài có gì vui”  em hạ giọng nghiêm chỉnh: “Cảm ơn chị bỏ thì giờ đi với em. Nhất là vào một buổi chiều trời đẹp như hôm nay.” Tôi nhìn mắt em long lanh, có niềm vui pha lẫn nỗi buồn, tôi liên tưởng đến vẻ đẹp buổi chiều trước giờ tắt nắng.
 
Quán nước nằm cao ngót trên triền đá, xung quanh là biển trời mênh mông. Em kéo tôi vào ngồi ở bàn khuất trong góc phòng nơi có tấm thảm màu xanh mạ lót dưới bộ sofa da bò màu nâu đất cũ kỹ, một bên là kệ sách gỗ cao ngút tận trần nhà, một bên là cửa sổ mở tung vào bầu trời vần vũ những đám mây hồng tía. Mặt trời hệt cái mâm tròn sà thấp sát mặt nước, đỏ ửng như cục than hừng hực trước khi tắt. Chúng tôi ngồi xoay hướng về phía chân trời, hoàng hôn tĩnh lặng tưởng chừng thanh bình, yên ả. Có tiếng chim kêu từ xa vọng lại não nề. Trong thoáng chốc, biển hồ mới đó xanh thẳm chuyển sang đen ngòm. Vệt sáng cuối cùng tự bao giờ bị nuốt chửng vào lòng biển không còn vết tích. Tôi nghe em lầm bầm với chính mình, “Cái gì dù đẹp và mạnh mẽ tột cùng cũng không để lại gì. Mọi thứ đều như thế, đều bị nuốt chửng vào bóng tối.” Tôi nói với em: “Không hẳn, có những thứ đi rồi mà vẫn lì lợm ở lại với chúng ta, chẳng hạn như hình ảnh người tình chia tay chưa thỏa lời biệt ly.” Em nheo mắt: “Thứ còn lại chỉ là kỷ niệm. Và theo thời gian kỷ niệm cũng tan biến vào bóng đêm.”
 
Kim Yến là một người bạn trẻ hơn mà tôi thường gọi đùa là “bệnh nhân” đặc biệt của tôi. Thời gian mới quen biết nhau, chúng tôi gặp nhau cách tuần, có khi ở quán, có khi ở nhà, có khi ở khuôn viên, đôi khi chỉ gặp nhau ở một bãi đậu xe. Vào những lúc em ở tình trạng “trầm trọng”, tôi đem chai rượu sang nhà em và hai chị em nói chuyện đến khi mặt trời lên. Có những buổi ngồi với nhau cả buổi chiều, chúng tôi chỉ ậm ừ vài câu, để sự yên lặng làm chất xúc tố hòa quyện tình cảm và sự thông hiểu giữa hai trái tim mệt nhoài. Có những ngày em nói chuyện huyên thuyên, nói về những việc không đâu vào đâu, nhắc về một khoảnh khắc kỷ niệm thơ ấu, về một người thân, một cuốn sách, một bản nhạc. Dù em nói chuyện gì đi nữa, tôi ngày càng hài lòng hơn về tiến triển tinh thần của em. So với một Kim Yến im lìm và khép kín, em giờ đây biểu lộ cảm xúc, đôi khi còn có vẻ nhạy cảm.
 
Vào những buổi chiều trời nhiều sắc màu biến đổi như chiều nay, hai chị em thường ngồi im lặng bên nhau chờ cho cảnh vật lắng đọng.  Hôm nay, trông em có vẻ bồn chồn bất an, tôi sốt ruột đi thẳng vào đề: “Có gì không ổn? Cúi sát đầu vào tôi, em nói như thì thầm: “Đã hơn vài tuần nay, họ không về nữa.” Giọng em hạ thấp: “Em đã cố gắng đến kiệt sức. Đã làm mọi cách. Nhưng lần này, họ thật sự biến mất.” Có chút gì đó tắt nghẽn trong giọng nói, như âm hưởng của sự tuyệt vọng. Tôi cố gắng nói với em một câu gì đó, lúng túng tìm một câu trích thích hợp nhưng rồi im bặt trước cặp mắt em xa vắng, trống rỗng, như thể em đang trân trân nhìn vào một hố đen trước mặt.
 
Tôi nắm tay em bóp chặt: “Đã nhiều năm qua rồi, có lẽ mẹ và em đã siêu thoát...” Em vẫn đăm đăm nhìn vào hố sâu. Tôi không biết làm gì hơn ngoài việc ngồi im cùng em phóng mắt vào màn đêm. Ngoài kia những đợt sóng từng lớp xô vào bờ, thỉnh thoảng đập mạnh vào những mỏm đá làm bọt sóng tung cao gây cảm giác tan vỡ.
 
Đó là đêm cuối cùng tôi gặp em.
 
*
 
Sinh ra đời,
               chứ không phải cái chết,
              là sự mất mát nặng nề nhất.
                              – Louise Gluck
 
Mẹ sinh ra em vào mùa xuân năm 1972 tại Nha Trang, vừa chào đời em khóc oa oa mẹ dỗ mãi không nín. Một lát sau, em bỗng dưng im bặt. Mẹ nhìn ra cửa sổ nghe có tiếng chim trời hót vang. Mẹ đặt tên em là Nguyễn Kim Yến. Một năm sau khi em chào đời, mẹ sinh thêm một bé gái đặt tên là Nguyễn Kim Vân. Vài năm sau miền Nam thất thủ, gia đình ly tán, cha em chết trong trại tù cải tạo, mẹ buôn bán tần tảo sáng tối cố gắng sống còn trong những ngày cả nước khốn khó, nuôi dạy hai chị em lớn khôn trên bãi biển Nha Trang. Hai chị em ngày đêm không rời nhau như hình với bóng cho đến cái ngày định mệnh ấy.
 
Cơn bão đã tan và mặt trời trên cao chói chang khi em tỉnh dậy trên một bờ biển. Mở mắt ra, em thấy hàng trăm cặp mắt xung quanh chăm chăm nhìn vào mình như thể họ đang chờ đợi một phép mầu. Cảm giác người nóng ran, thân thể tím bầm, nặng trịch như bị cột chặt vào tảng đá đang từ từ chìm xuống, em ú ớ gọi mẹ, cố nhớ lại chuyện xảy ra đêm qua, khi đám hải tặc tràn lên tàu. Một cảm giác đau buốt truyền từ hai chân lên tới đầu, em đưa tay lên ngực cố giữ chặt trái tim đang co thắt hoảng loạn.
 
Mặt đất bồng bềnh. Bầu trời sà xuống thấp như muốn bóp nghẹt khoảng không gian ngột ngạt.  Tiếng người bàn tán xôn xao, ai đó với khuôn mặt thần chết đang cố gắng giải thích sự việc. Em nhắm chặt mắt lại, hiểu rằng từ nay trở đi khi mở mắt, mình sẽ chẳng bao giờ còn nhìn thấy mẹ và em gái thương yêu nữa.
 
Những năm tháng trung học ở Mỹ sau đó em trở thành một cô bé câm. Con chim trời không còn tiếng hót, nhốt mình vào lồng kín. Có lẽ với em, thế giới càng nhỏ càng thu hẹp, hình ảnh mẹ và em gái càng không bị lu mờ. Thông thường, người ta phải tập quên đi và đóng chặt cánh cửa nhìn vào quá khứ để vượt qua và tiếp tục bước đi trong cuộc sống. Riêng em, quá khứ dù là những vết cắt ngoài sức chịu đựng, nhưng lại là chiếc cầu nối duy nhất đưa em trở về.
 
Em nuôi dưỡng những vết thương trong lòng mình, bám víu vào cơn ác mộng hằng đêm níu giữ lại khuôn mặt người thân yêu.

*
 
Cái chết
được ấp ủ
từ những vết thương.
        – Federico García-Lorca
 
Mùa đông năm 2013, trong khi tôi đang vật lộn với một cuộc khủng hoảng tình cảm tưởng chừng như không vực dậy nổi, tôi tình cờ gặp lại Kim Yến và hoàn toàn bị em thu hút. Tuy em luôn im lặng và khép kín đến vô cảm, tôi vẫn có cảm giác như tận cùng trong con người bằng da bằng thịt đó ẩn náu một linh hồn đang vùng vẫy cố thoát ra khỏi thân xác. Điều gì đó trong ánh mắt em khiến tim tôi đau nhức, hệt như hồi còn bé nhìn con chim bị bắn gãy cánh vùng vẫy gắng sức lết theo đàn.
 
Có lẽ khi đã mệt nhoài, người ta không còn đủ sức chống chõi, che đậy nữa, mà để yên cho người ngoài soi thấu vào tâm can mình. Thoạt nhìn vào, Kim Yến là một cô gái mạnh mẽ, thông minh, ngăn nắp, sống một đời sống độc lập, lý tưởng. Nhưng hệt như những vết thẹo hằn sâu trên thân thể, trái tim em chằng chịt những vết thương. Em yếu đuối và mỏng manh. Em đau đớn, sợ hãi. Tôi có cảm tưởng chúng tôi gần gũi nhau bằng sự cô đơn và tuyệt vọng, với hy vọng tình thân yêu sẽ giúp nhau vượt qua những đêm tối của cuộc đời.
 
Tình yêu, dù ở dưới dạng nào, cũng là hạt mầm hy vọng. Tình bạn với em giúp tôi phần nào tìm lại được thăng bằng. Còn em, có khi tôi thấy em như tạm quên những oan khiên trong đời, tung cánh bay cao. Tiếng chim hót dường như cũng thánh thót hơn. Tôi để ý thấy những chuyến bay thường xuyên trở lại Thái Lan tìm mẹ và em cũng dần dà thưa dần. Có thể nào những vết thương đã liền lặn, và cuối cùng trong một góc sâu thẳm nào đó, em đã cho phép đứa con gái sống sót duy nhất trong gia đình được quyền sống, được quyền hiện hữu.
 
Hồi đó tôi thường tự cho rằng mình có một giác quan thứ sáu, nhạy cảm với mọi sự việc, nhất là với những người mình thương yêu. Vậy mà chiều hôm đó, tôi đã không mảy may linh cảm được điều gì, kể cả khi đưa em về nhà, em chỉ chồng sách đặt sẵn trên bàn: “Chị đem về nhé. Ba trong những cuốn sách này là sách em trả lại chị. Những cuốn còn lại em cho chị mượn đọc. Là những cuốn favorite của em.” Đặt chồng sách vào xe, cuốn The Birth of Tragedy đập vào mắt tôi vì màu giấy ngà cũ kỹ, tôi cầm cuốn sách lên, hàng chữ First Edition đã phai màu nhạt thếch và mùi giấy cũ gây cho tôi một cảm giác rờn rợn.
 
*
 
Chị, chị đâu rồi. Em không nhìn thấy chị.
Chị đây. Sát bên em nè.
Không, em không thấy chị. Chị đâu.
Chị đây. Chị đang ôm em đây nè. Tay chị nè.
Không. Em không cảm giác được gì hết.
Chị. Chị ơi. Tay chị đâu. Tay em đâu.
Người ta đè lên em tê cứng. Tay em đâu rồi. Chị, chị ơi.
Suỵt. Đừng sợ. Chị đây.
Chị. Chị ơi. Chị đâu. Đừng buông em ra.
Hẳn nhiên rồi.
 
Thụp, một tiếng động mạnh, hệt như một con thú vừa hạ bàn chân khổng lồ giậm mạnh xuống boong tàu, mọi thứ rung chuyển. Những tiếng la ó thất thanh nổi lên khi những bóng đen từ trong bóng tối nhảy vọt lên tàu. Trong muôn vàn âm thanh hỗn loạn, con bé nghe tiếng em gái ré lên từng hồi. Nó ôm chặt em nó, cảm giác bàn tay ai đó đang lôi nó xềnh xệch. Nó nhắm chặt mắt lại. Chặt đến nỗi mọi cảnh diễn ra sau đó không thể nào lọt vào mắt nó.
 
Năm, mười, mười lăm, hai mươi. Nhắm mắt. Năm, mười, mười lăm, hai mươi. Nhắm mắt. Nhắm mắt. Bầu trời chằng chịt những ngôi sao, hai chị em leo thoăn thoắt lên những hốc đá chơi trò trốn tìm. Nhắm mắt. Bãi cát Nha Trang sớm mai êm ả hiền hòa, hai chị em chân đất nắm thay nhau chạy ra đón những chiếc tàu đánh cá vào bờ. Chỉ cần nó nhắm mắt. Nhắm mắt và cầu nguyện. Những bàn tay thô bạo. Cái thân nặng ngàn cân trên người nó. Cái cảm giác đau nhói liên hồi giữa hai chân nó. Tất cả rồi sẽ biến mất. Chỉ cần nó nhắm mắt. Cầu nguyện. Khi mở mắt, mọi thứ sẽ biến mất.
 
Và như thế, mọi thứ biến mất. Em nó, mẹ nó, tuổi thơ nó, tâm hồn nó, niềm tin tình yêu của nó, tất cả những gì tốt đẹp gắn bó hình thành nó đã vĩnh viễn biến mất – đêm hôm đó.
 
Thứ còn lại là nỗi dày vò, bứt rứt khôn nguôi của người sống sót ở lại, cùng những hồn ma trong lòng.
 
*
 
Chúng tôi thường hẹn nhau vào cuối ngày trước giờ tắt nắng. Có lẽ màu sắc của bầu trời và sự tĩnh lặng của không gian đem đến sự bình yên tạm thời. Cũng có lẽ sự trở lại đều đặn, bền bỉ mỗi ngày của thứ sắp tan biến xoa dịu nỗi bất an vô hình.
 
Đêm đầu tiên khi giấc mơ hằng đêm không về, em thức dậy hụt hẫng. Người không toát mồ hôi, máu cũng không dồn về tim, nhìn ra ngoài mặt trời đã lên cao, em nằm yên không chuyển động chờ cho đêm trở lại. Con người một khi đã quen tiếp xúc với điều gì đó, dù là nỗi đau, sự hành hạ, thậm chí sự đục khoét lở loét vào vết thương, nhưng nếu thiếu nó, người ta sẽ không còn cảm giác mình đang sống, đang hiện hữu.
 
Khi những bóng ma quá khứ vĩnh viễn không trở về nữa, em thấy mình như kẻ thất tình, cảm giác một lần nữa bị bỏ rơi giữa dòng không một liên hệ nào sót lại trên đời. Cuộc sống. Mọi hệ lụy. Giấc mơ. Hy vọng. Thế giới. Tất cả. Một sự vắng bóng.
 
Điều cuối cùng con người phải làm là tan biến. Như bóng chiều – mất biến vào đêm tối.
 
*
 
Ngày được tin em ra đi ở Thái Lan, tôi hình dung đến cảnh hoàng hôn sà thấp xuống một chuyến tàu. Trên cao, từng đàn chim yến nối đuôi nhau xoải cánh về hướng mặt trời. Người phụ nữ đứng dựa lan can tàu thản nhiên đưa chân bước vào khoảng không trước mặt.
 
Tiếng chim trời ngoài khơi kêu vang, như tiếng kèn hiệu hồi kết. Cũng có thể là kèn hiệu bắt đầu. Biết đâu khi người ta đi hết quãng đường thế gian, có một chốn nào đó nơi khổ đau không hiện hữu, và đàn chim có thể tự do lượn cánh không sợ bị bắn rơi nửa đường.
 
Bất kể nơi nào, tôi tin rằng có một nơi chốn tốt đẹp hơn cho em, xa hẳn thế giới này.
  
Nguyên Yên
 Tưởng nhớ Kim Yến [1972-2017]
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.