Hôm nay,  

Tuổi trẻ tươi đẹp

16/08/202308:15:00(Xem: 3679)
Tùy bút

VN sand

Mấy hôm nay có những cơn mưa kèm theo gió mạnh buổi chiều kéo dài đến khuya, báo  hiệu sắp hết mùa Hè. Tôi lại nhớ tuổi trẻ của mình những năm đầu “lập nghiệp” vào mùa  tựu trường.
 
Ngôi trường mới
 
Chuyến xe đò từ Sài Gòn chở tôi ra đến bến xe Nha Trang lúc 6 giờ chiều. Thời gian đi  mất gần mười tiếng đồng hồ trên đoạn đường dài 450km. Hành trang của tôi chỉ vỏn vẹn  chiếc va-li nhỏ và túi bỏ giấy tờ, quan trọng là quyết định phân công về Phú Khánh của Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. (Trước 75 Nha Trang và Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa, sau nhập chung với tỉnh Phú Yên đổi tên thành Phú Khánh, bây giờ dùng lại tên cũ Khánh Hòa.)
    Đêm đầu tiên tôi ở lại nhà dì Lệ, bác sỹ bịnh viện Yersin Nha Trang, bạn mẹ tôi thời trung  học Đồng Khánh-Huế. Vợ chồng dì có một con trai nhỏ, suốt ngày hát véo von “Mùa Đông áo đỏ, mùa Hạ áo xanh, cây bàng ngoài vườn thì chim đến vây quanh...” Ít ra tôi  còn nghe được những câu hát dễ thương thay vì “đêm qua em mơ gặp bác Hồ.” Sáng sớm hôm sau tôi tạm biệt gia đình dì Lệ, đến Ty Giáo Dục Phú Khánh trình diện. Ông Trưởng Ty giữ tờ quyết định của trường ĐHSP-SG và ký tên đóng dấu một tờ “quyết định bổ nhiệm” khác giao cho tôi. Cầm tờ QĐBN, đọc kỹ những chi tiết và tên trường, Trung Học Phổ Thông Cấp 3 (Trung Hoc Đệ Nhị Cấp) Trần Bình Trọng-Cam Ranh. Tôi  hỏi ông Trưởng Ty đường đến trường rồi chào và đi ngay.
    Đón chiếc Daihatsu ngoài quốc lộ 1 chạy ngược về phía Nam, tôi dặn bác tài xế đến  trường Trần Bình Trọng ở Bãi Giếng-Cam Ranh thì nhắc giùm. Bác tài hỏi:
    – Cô mới tới đây lần đầu hả? Cô dzô đó dạy hay học?
    – Dạ, dạy học.
    Không lâu lắm, xe ngừng lại bên lề quốc lộ. Bác tài chỉ lên tấm bảng lớn ghi tên trường Trần Bình Trọng màu xanh dương, gắn trên hai cái trụ bê tông giống một cái cổng rộng không có cánh cửa.
    – Trường này đó, cô giáo dzô đi.
    Tôi cám ơn bác tài và xuống xe.
    Đó là một ngày vào Thu, mang tâm trạng gần giống cậu bé trong tập truyện ngắn “Quê Mẹ” của nhà văn Thanh Tịnh, tôi rảo bước vào sân trường trên lối đi đầy cát trắng. Chỉ  có mây bàng bạc trên cao và cát lún mềm dưới chân, không có lá rụng đầy trên đường, cũng không có mẹ dắt tay đi học, một mình tôi nơi đây, xa lạ, đối diện với cuộc sống hoàn  toàn mới. Khoảng sân rộng mênh mông lưa thưa vài gốc liễu già. Chung quanh toàn là cát mịn,  không có lấy một bụi cỏ. Phía trong xa, học sinh đang tập thể dục. Dừng lại vài giây, tôi  hít sâu tiến qua hàng rào “vận động viên”, thẳng đến dãy phòng ngang chính giữa, nhìn  lướt qua những bảng tên treo trên cửa lớn tìm “Phòng Hiệu Trưởng”.
    Thầy Cẩn, Hiệu Trưởng, tiếp tôi thân thiện. Sau khi đọc qua tờ quyết định bổ nhiệm, không hỏi gì thêm, thầy vô đề ngay:
    – Cô T. tính dạy ở trường lâu dài không?
    Hơi bất ngờ, tôi ngớ người ra thầm nghĩ không dạy ở đây chứ đi đâu, không lẽ chê huyện  nghèo rồi trở về bám thành phố?
    – Dạ, ý của thầy tôi chưa hiểu. – Tôi hỏi lại vì muốn biết rõ lý do.
    Thầy cười:
    – Vì đây là xã Bãi Giếng nên nước chỉ dùng nước giếng, điện thì không có. Trước cô T. có mấy cô ở Sài Gòn ra, chịu cực không nổi nên bỏ về. Tôi muốn biết cô có thật ở lại dạy học hay không để còn tính.
    Tôi chưa biết mùi vị cực đến thế nào mà các cô không chịu nổi phải nghỉ ngang, làm  người mới như tôi bị nghi ngờ. Tuy nhiên, giọng miền Nam thân thiện và cách nói chuyện  của thầy Hiệu Trưởng đáng tin cậy nên tôi hứa sẽ chịu trách nhiệm việc dạy học, nếu  muốn về nhà cũng báo trước chứ không tự ý bỏ việc. Thầy Hiệu Trưởng cười hiền hòa  tỏ vẻ thông cảm, nhưng có thật tin tưởng tôi không thì chưa biết.
    Sau giờ thể dục, tất cả thầy trò vào lớp, trả lại một màu trắng xóa trên bãi sân dưới bầu  trời hanh nắng. Thầy Hiệu Trưởng dạy môn Vật Lý, hôm nay không có giờ nên đưa tôi đi một vòng quanh  trường, giới thiệu từng phòng. Nói là vòng quanh chứ ngôi trường chỉ có hai dãy nhà trệt  đơn sơ xây hình chữ L ngược. Dãy giữa gồm nhà ở của giáo viên (lưu xá dành cho giáo viên xa nhà), phòng để dụng cụ dạy học, thư viện, phòng Hiệu Trưởng, phòng họp. Góc  xa là nhà ăn tập thể nằm khiêm tốn dưới bóng mấy cây đu đủ, kề bên cái giếng nước.  Dãy ngang gồm những phòng học liền nhau, không nhiều phòng lắm nên giờ học chia ra hai buổi sáng, chiều. Ngoài sân trước có xây một tấm bảng lớn bằng xi-măng láng sơn màu xanh lá cây, dùng để ghi thông báo và tin tức. Bên cạnh là gốc mít to, có cái kẻng  đồng treo trên một cành cây để đánh báo hiệu giờ học, giờ chơi.
Chỉ vậy thôi! Tôi bâng khuâng tự hỏi, đây là ngôi trường mới của mình?
 
Nhà trọ
 
Rời trường, thầy Hiệu Trưởng dẫn tôi băng qua đường đến nhà của phụ huynh một em học sinh lớp 10, là nhà tôi sẽ ở trọ trong thời gian dạy nơi đây. Căn nhà đối diện hơi xéo với cổng trường, tuy rất gần nhưng khoảng cách chiều ngang xa lộ không có đèn giao thông rất nguy hiểm cho người đi bộ. Vậy mà về sau, quãng đường thênh thang đầy rủi  ro đó đã in không biết bao nhiêu dấu chân tôi qua lại.
    Nhờ thầy Hiệu Trưởng đã xin phép chủ nhà trước nên tôi sớm có được một chỗ ở trong căn nhà rộng rãi thoáng mát. Tôi ngó qua một vòng, ngoài phòng khách và hai phòng  ngủ bên trong, phía sau là nhà bếp. Chung quanh có trồng mấy bụi mía, chuồng nuôi heo, gà, một cái giếng cạn, nước cao gần đến miệng giếng, có thể vói tay xuống múc  nước. Nhưng một nơi rất quan trọng là nhà vệ sinh lại không thấy đâu, hỏi ra mới biết muốn đi tắm thì phải đợi trời tối, ra giếng! Tóm lại nhà trọ của cô giáo mới không điện, không nước máy, chỉ có phòng tắm lộ thiên, còn nhà vệ sinh công cộng thì sơ sài khá xa nơi ở. Hơi hoang mang, chút nản chí nhen nhúm trong lòng, tôi đã hiểu lý do mấy cô giáo trước đây, chưa dạy học ngày nào đã chuồn mất tiêu! Nhưng tôi thuộc tuýp người thích ứng nhanh kiểu “nhập gia tùy tục”; quan trọng nhất là có thể tự nuôi bản thân, không ăn bám mẹ sau bao năm đèn sách nên tôi mạnh dạn chấp nhận sự thật này.
    Hai bác chủ nhà thương tôi như con, quý trọng nghề giáo nên cuộc sống của tôi khá vui vẻ và đỡ nhớ nhà. Hai bác có rẫy mía, rẫy bắp, rẫy khoai mì trồng xen theo từng mùa. Đến mùa thu hoạch, bác trai đánh xe bò chở về chất đầy kho để dành cho gia đình dùng sau phần lớn nông sản đã bán. Hai bác thường để dành cho tôi khi chén cơm bắp, lúc chén khoai ngào đường, hoặc vài khúc mía. Những thức ăn "nhà quê" bình thường đó đối với tôi đúng là món cao lương mỹ vị trong thời gian khó khăn, ngày hai buổi chỉ biết cơm độn bo-bo với gạo xỉn màu.
Cứ thế, ngày ngày tôi đi bộ đến trường, dạy học, ăn cơm tập thể, tối cuối tuần tụ họp ở  nhà bạn đàn hát, không phàn nàn gì, cũng không gửi thư về nhà than thở, vậy nên năm học trôi qua rất nhanh. Không biết do tôi suy nghĩ lạc quan hay “rất ngầu” như lời bạn bè khi nghe kể chuyện “bụi đời” của tôi?
    Năm sau, hai bác ưu ái cho tôi độc quyền ở một căn nhà khác bên hông trường, là căn nhà thờ ba gian, có rẫy khoai mì bao quanh. Qua khỏi rẫy khoai là một hàng rào gỗ thấp, ranh giới với trường. Căn nhà này bác trai hoặc con trai thỉnh thoảng vào chăm sóc rẫy khoai, quét dọn, và nghỉ ngơi trên chiếc võng treo giữa nhà. Tôi có một không gian riêng tư, có bàn làm việc kê bên cửa sổ nhìn ra mảnh vườn cát trắng trồng xương rồng và hoa sứ. Trước nhà có giàn hoa giấy đỏ thơ mộng và cái giếng nước trong veo. Ở nơi nắng hanh hao đầy gió, có được một mảnh vườn với vài bông hoa như vậy, với tôi cũng đủ là niềm hạnh phúc.
    Cũng vì hạnh phúc nhỏ nhoi đó mà tôi đã bao lần suýt trễ giờ vào lớp.
    Ông Bùn, gác-dan kiêm đánh kẻng báo hiệu. Đặc biệt giờ vào lớp đánh hai hồi, sau hồi kẻng thứ hai mà chưa có mặt trong lớp xem như trễ giờ. Đôi khi kẻng vang lên lần đầu tôi mới sực nhớ có giờ dạy, vội lật đật thay y phục, rồi tay ôm sách, tay túm hai vạt áo dài, tôi chạy băng qua rẫy khoai mì, leo rào vô trường. Dù lối nhỏ phải đi ngang qua nhà vệ sinh, tôi cũng đành nhắm mắt đưa chân. Những lần như vậy, ông Bùn tốt bụng thấy tôi từ đằng xa là ông chưa bắt đầu hồi hai, đợi tôi đến trước cửa lớp ông mới đánh kẻng.  Ông Bùn chính là ông Bụt!
 
Phụ Tá Giáo Viên Hướng Dẫn
 
Là chức vụ đầu tiên thầy Hiệu Trưởng giao cho tôi ngoài công việc dạy chuyên môn. Thầy giới thiệu trong một buổi họp giáo viên, “Cô T. từ hôm nay là phụ tá Giáo Viên Hướng Dẫn lớp 10D1 giúp cô Danh, có việc gì cần cô Danh hướng dẫn  thêm cho cô T.” Chị Danh dạy môn Vạn Vật, người Nha Trang, giọng nói nhỏ nhẹ. Chị nhờ tôi hướng dẫn  báo chí, văn nghệ cho lớp, những việc khác do chị lo. Thứ sáu mỗi tuần, sau giờ họp lớp là chị đón xe về nhà, sáng thứ hai trở lại trường. Tôi thì có được hai ngày cuối tuần rảnh rỗi, nên xem ra cô phụ tá thường bận rộn với  đám học trò nhiều hơn. Học trò thay nhau mời cô đến nhà chơi hoặc đi vô vườn ổi, mãng  cầu, xoài, v.v... Đôi khi phụ huynh mời tôi dùng cơm cùng gia đình, hỏi han chuyện học hành con em. Cứ vậy, mỗi tuần tôi đều có “báo cáo công tác” trong buổi họp giáo viên với thầy Hiệu Trưởng. Công việc này thật sự không quá khó, trái lại còn đem lại lợi ích  về mặt tinh thần và thể chất cho tôi. Thì đúng như vậy, mỗi dịp nghỉ Hè hoặc Tết về nhà, mẹ tôi hay nói tôi dạy học nơi khỉ ho cò gáy mà thấy mập ra. Còn khi hết phép trở lại trường, học trò nhìn tôi thương cảm, “Sao cô ốm dzậy cô?” “Ừ, tại thời tiết Sài Gòn nóng quá!” Tôi trả lời cho xong chứ Bãi Giếng nắng nóng đâu thua kém.
 
Giáo Viên Hướng Dẫn
 
Niên khóa sau, cũng trong buổi họp đầu năm, thầy Hiệu Trưởng quyết định, “Cô T. năm nay làm giáo viên hướng dẫn lớp 12A” trước sự ngạc nhiên của  toàn thể giáo viên. Tôi biết sự tin tưởng của Thầy Hiệu Trưởng dành cho mình hơi thiên vị. Nhưng không sao, năm thứ nhì dạy học tôi đã có thêm nhiều kinh nghiệm nên tôi đã không làm thầy thất vọng, cũng đã xóa đi suy nghĩ “non tay nghề” của bậc đàn anh.
 
***
 
Những kỷ niệm sâu đậm nơi đây là cuộc sống bình thường không tính toán so đo và những con người giản dị chân thật. Một nơi chỉ thấy bầu trời và cát trắng, ban ngày cát nóng rát chân, ban đêm cát sáng thay đèn. Một nơi cửa nhà không cần khóa, sân nhà không cần rào, cách nhau bởi bụi mía, hàng bắp. Nơi mà đi đâu đâu cũng thấy giếng nước trong vắt, như tuổi trẻ tươi đẹp của thầy trò chúng tôi.

 

– Hồ Thị Kim Trâm

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.