Ngày 26 tháng 7 năm 1990 là một ngày hè oi ả. Nhưng bất chấp nắng nóng, hơn 2,000 người ủng hộ quyền của người khuyết tật đã tập trung tại South Lawn của Tòa Bạch Ốc ở Washington, D.C., cùng nhau chứng kiến một trong những chiến thắng quan trọng nhất về quyền công dân trong nhiều thập niên: Tổng thống George H.W. Bush ký dự luật Americans with Disabilities Act (ADA) thành luật.
Buổi lễ ký kết diễn ra chỉ vài ngày sau ngày Lễ Độc Lập 4 tháng 7, khi đó tổng thống Bush thừa nhận rằng Hoa Kỳ không phải lúc nào cũng tuân theo các nguyên tắc sáng lập về tự do và bình đẳng. Ông nói: “Thật đáng tiếc là Hoa Kỳ có rất nhiều người bị hạn chế hoặc thậm chí là không được hưởng những phước lành của tự do. Đạo luật hôm nay sẽ đưa chúng ta đến gần hơn tới một ngày mà không một công dân nào ở Hoa Kỳ bị tước đi bảo đảm cơ bản trong cuộc sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Đạo luật ADA không chỉ cung cấp các biện pháp bảo vệ quyền công dân toàn diện cho người khuyết tật lần đầu tiên trong lịch sử đất nước, mà còn đánh dấu một sự thay đổi lớn trong thái độ của quốc gia đối với quyền của người khuyết tật. Đây là cách đạo luật này ra đời làm thay đổi một đất nước.
Phong trào vì quyền của người khuyết tật đang dâng cao
Xuyên suốt lịch sử, người khuyết tật thường bị chế giễu và xa lánh. Những khiếm khuyết không mong muốn đã đẩy họ ra ngoài lề xã hội. Đến những năm 1960, sự phân biệt đối xử đó đã được hệ thống hóa. Người khuyết tật không được theo học ở các trường công lập, bị ép triệt sản, phải sống trong các cơ sở do nhà nước điều hành và không có quyền bầu cử. Một số thành phố thậm chí còn thông qua “luật xấu xí” (ugly laws) cấm những người có dị tật “khó coi hoặc ghê tởm” xuất hiện ở những nơi công cộng.
Đó là một thế giới không có chỗ dành cho người khuyết tật. Các tòa nhà chính phủ và cơ sở tư nhân đều chẳng có những làn đường dốc và thang máy, các phương tiện giao thông công cộng không có chỗ dành riêng cho những người bị suy giảm khả năng vận động hoặc thị giác. Khuyết tật được coi là một vấn đề y tế cần được giải quyết hơn là một tình trạng cần được bảo vệ theo luật không phân biệt đối xử.
Nhưng mọi thứ bắt đầu thay đổi vào những năm 1970. Lấy cảm hứng từ phong trào dân quyền của những năm 1960, những người ủng hộ quyền của người khuyết tật trở nên có tiếng nói hơn. Tình trạng khiếm khuyết cũng trở nên đáng chú ý hơn khi có hàng ngàn binh lính trở về từ các cuộc chiến ở Việt Nam và Hàn Quốc với thương tích đầy mình. Năm 1973, Section 504 của Đạo luật Rehabilitation Act được thông qua, cấm các chương trình nhận tài trợ của liên bang phân biệt đối xử với người khuyết tật. Đây là bộ luật đầu tiên sử dụng thuật ngữ “phân biệt đối xử” để mô tả những rào cản mà những người khuyết tật ở Hoa Kỳ phải đối mặt.
Để luật có hiệu lực, chính phủ sẽ phải ban hành các quy định xác định ai đủ điều kiện là người khuyết tật, và điều gì cấu thành sự phân biệt đối xử với người khuyết tật. Cơ quan Y Tế, Giáo Dục và Phúc Lợi Hoa Kỳ đã vật lộn với các điều khoản đó trong bốn năm. Mất kiên nhẫn với sự trì hoãn này và lo lắng các quy định sẽ bị suy yếu, những người ủng hộ quyền của người khuyết tật đã tổ chức các cuộc biểu tình trên khắp đất nước. Vào tháng 4 năm 1977, một cuộc biểu tình ngồi tại một tòa nhà liên bang ở San Francisco trong 28 ngày đã diễn ra – cuộc biểu tình ôn hòa lâu nhất tại một tòa nhà liên bang trong lịch sử Hoa Kỳ. Nỗ lực này đã gặt hái được thành quả xứng đáng.
Cần có luật dân quyền toàn diện
Với Bộ Luật 504, công chúng Hoa Kỳ bắt đầu hiểu rằng cung cấp chỗ riêng cho người khuyết tật là quyền công dân hơn là phúc lợi. Từ đó cũng thúc đẩy phong trào bảo vệ quyền của người khuyết tật, phong trào này đã giành được một số thắng lợi quan trọng khác trong những năm 1970 và 1980 – bao gồm cả luật bảo đảm giáo dục công miễn phí cho trẻ em khuyết tật và nghiêm cấm phân biệt đối xử về nhà ở dựa trên tình trạng khuyết tật.
Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử vẫn tồn tại. Năm 1979, Tối Cao Pháp Viện phán quyết rằng trường điều dưỡng tại Southeastern Community College ở Whiteville, North Carolina, không bắt buộc phải theo Section 504 để tiếp nhận ứng viên khiếm thính. Trong những trường hợp khác, các quy định không được thực thi tới nơi tới chốn. Thí dụ, các cơ quan kiểm soát vận chuyển được phép tự quyết định mức độ tuân thủ.
Vào giữa những năm 1980, những người ủng hộ quyền của người khuyết tật kết luận rằng bước quan trọng tiếp theo là thúc đẩy luật dân quyền toàn diện cho người khuyết tật. Tổ chức National Council on Disability đã thực hiện một báo cáo về sự cần thiết của một đạo luật như vậy. Phó chủ tịch Justin Dart, người sau này được biết đến với biệt danh “Bố già của ADA,” bắt đầu chu du toàn quốc để thảo luận về chính sách người khuyết tật với các viên chức địa phương, đồng thời tập hợp những câu chuyện về sự phân biệt đối xử mà người khuyết tật phải trải qua.
Những nỗ lực vận động này đã gây ấn tượng ở cả hai đảng chính trị. Quyền của người khuyết tật đã trở thành một vấn đề lưỡng đảng sau nhiều năm thay đổi nhận thức của công chúng. Năm 1988, TNS Lowell Weicker của Đảng Cộng Hòa từ Connecticut, và Tom Harkin, dân cử Đảng Dân Chủ từ Iowa, đã giới thiệu Dự luật Americans with Disabilities Act. Sau nhiều năm sửa đổi, bổ sung và đàm phán, dự luật đã được thông qua vào ngày hè tháng 7 năm đó, Bush – người đã hứa trong chiến dịch tranh cử vào năm 1988 là sẽ có luật dân quyền cho người khuyết tật – đã ký ADA thành luật với Dart bên cạnh.
Tại sao ADA lại quan trọng
ADA là một bộ luật sâu rộng cấm phân biệt đối xử dựa trên tình trạng khuyết tật trong việc làm, nhà ở công cộng, dịch vụ công cộng, giao thông vận tải và viễn thông. Bộ luật này đã mang lại cho người khuyết tật sự bảo vệ, cũng giống như Đạo luật Civil Rights Act năm 1964 đã bảo vệ mọi người không bị phân biệt đối xử dựa trên cơ sở chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính và nguồn gốc quốc gia.
ADA đã khởi công xây dựng một thế giới dễ tiếp cận hơn bằng cách đảm bảo rằng các tòa nhà, trường học và không gian công cộng được trang bị các làn đường dốc, thang máy và phần dốc lề đường, khiến cho việc đi lại trở nên dễ dàng, người khuyết tật được dành chỗ riêng, như thang máy cho xe lăn, dịch vụ đưa đón sân bay và xe thuê có điều khiển bằng tay, đồng thời dẫn đến sự gia tăng của các phiên dịch viên và phụ đề chi tiết trong thông tin liên lạc công cộng.
Điều quan trọng là luật này cũng đã trở thành hình mẫu cho các quốc gia khác đang tìm cách chấm dứt tình trạng phân biệt đối xử với người khuyết tật. Kể từ năm 2000, hơn 180 quốc gia đã thông qua các đạo luật được lấy cảm hứng từ ADA.
Tuy nhiên, đạo luật có giới hạn. ADA đã bị chỉ trích vì không tăng được việc làm cho người khuyết tật. Hiện nay người khuyết tật chỉ chiếm 19% lực lượng lao động. Người khuyết tật vẫn bị tước quyền lao động. Các địa điểm bỏ phiếu trên toàn quốc không đủ thuận tiện cho họ; vào năm 2016, một báo cáo của chính phủ cho thấy 60% địa điểm bỏ phiếu bị kiểm tra có một hoặc nhiều trở ngại tiềm ẩn, chẳng hạn như đường dốc nguy hiểm, hoặc đường đi lại trong tình trạng tồi tệ. Trong khi đó, 39 tiểu bang và Washington, D.C., có luật cho phép các thẩm phán tước phiếu bầu của những người mà họ cho là không có khả năng tham gia vào tiến trình dân chủ, chẳng hạn như những người bị thiểu năng trí tuệ. Sự kỳ thị và phân biệt đối xử vẫn nhan nhản trong xã hội.
ADA có thể không hoàn hảo, nhưng như Dart đã viết vào năm 1990, đây “chỉ là khởi đầu, không phải là một giải pháp, mà là một nền tảng thiết yếu để từ đó xây dựng các giải pháp.”
Cung Đô biên dịch
Nguồn: “How the Americans with Disabilities Act transformed a country” của Amy McKeever, được đăng trên trang NationalGeographic.
Gửi ý kiến của bạn



