Hôm nay,  

Em Xẩm Tiều

07/09/202318:02:00(Xem: 3143)
Truyện

young-chinese

Cách đường lớn có mấy mươi mét mà con hẻm 69/3/17 này là cả một thế giới khác. Chùa Ông Bổn nằm ngay ngã ba giao nhau của mấy con hẻm luôn, từ đây tỏa ra và chạy quanh quẹo sâu vô trong những xóm nhỏ khác nữa. Những con hẻm ở đây cả ngày chẳng có nắng giọi, chỉ trừ lúc giữa trưa, những ngôi nhà cao tầng bao quanh ở mặt tiền che chắn hết nắng trời. Cái không khí mát dịu hơn bên ngoài nhưng cũng rất ủm thủm ẩm thấp.
    Hậu đến đây đã nhiều lần nhưng vẫn không làm sao nhớ nổi hết lối đi, cứ  mò mẩn men theo lối quen thuộc nhất là từ cầu Ba Li Kao mà vô, đi lớ ngớ là lạc đường cứ chạy vòng vèo mất thì giờ. Bạn của Hậu là Diệc Thành, một thằng bạn người Tiều chánh gốc, hai đứa chơi thân với nhau. Lần đầu Hậu biết xóm này là vì theo nó đi thăm bà cô họ của nó. Nó kêu bả là cô Phùng, người Việt mình kêu là Phượng, bà già Tiều răng rụng gần hết nên móm xọm, tóc cắt ngang vai, lúc nào cũng mặc bộ đồ xá xẩu truyền thống của người Tiều. Cô Phùng dễ thương, hiền lành nhưng phải cái tật nói liệu. Lần đầu gặp cô Phùng, bả xổ một tràng tiếng Tiều làm Hậu điếc luôn. Diệc Thành mới nói với bả:
    – Cô Phùng à, bạn con người Việt Nam, nó hổng biết tiếng Tiều đâu!
    – Ây da, vậy hả? mà sao nị làm bạn với nó được?
    – Cô Phùng, nhà nó ở gần nhà con mà, lâu rồi cô Phùng hổng tới nhà con nên quên hết.
Diệc Thành nói xong đem mấy món đồ ra đưa cho cô Phùng. Bà già nhìn thấy có vẻ thích thú, cười híp mắt:
    – Tó chè, tó chè! Ây da, ông Dậu tốt với Phùng quá!
    Cô Phùng cầm tay Diệc Thành lắc lắc rồi quay qua Hậu:
    – Xính xáng nị cành lồi hủ mé?
    Hậu hổng hiểu, nhìn Diệc Thành cầu cứu, Diệc Thành cười:
    – Cô Phùng hỏi mày ăn uống gì chưa đấy!
    Diệc Thành lại nhắc cô Phùng:
    – Cô Phùng à, bạn con hổng biết tiếng Tiều đâu!
    – Ây da, ngộ lại quên nữa rồi, xúi quẩy thiệt đa, ngộ già dồi nên trí óc nó hổng còn ngon lành nữa.
    Hậu vỗ vỗ bàn tay gầy guộc xương xẩu với làn da trắng thiếu nắng của cô Phùng:
    – Hổng có sao cô Phùng, con là bạn của Diệc Thành mà.
    – Ây da, dỉm tu tắc, ây da, sao cũng được mà!
    Cô Phùng hồi trẻ chắc đẹp lắm, giờ già rồi mà đường nét trên mặt vẫn còn rất rõ. Cô Phùng sống với cô con gái là cô Lìn trong căn nhà nhỏ và cũ xì, khói muội ám đen cả đồ vật, mọi thứ trong nhà cứ như đồ của hai thế kỷ trước. Căn nhà ẩm thấp tối tăm, ánh đèn neon nhợt nhạt bật cả ngày đêm, thời gian dường như đọng lại ở trong ngôi nhà này và cả những ngôi nhà khác ở trong mấy con hẻm quanh đây. Còn đang mãi ngắm nghía và suy tưởng lung tung, chợt cô Lìn từ nhà sau bước ra, cô Lìn mặc cái bộ đồ rộng rinh, mặt bôi phấn hồng hồng, miệng cười lỏn lẻn.
    – Ây da, Diệc Thành mới tới hả? vậy còn đây là ai?
    – Chế à, bạn của Diệc Thành
    – Ây da, đẹp chai quá chời luôn!
    Nói nhiêu tiếng Việt đó xong cô Lìn xổ toàn tiếng Tiều với Diệc Thành, Hậu đực mặt nghe chứ có hiểu gì đâu, chẳng qua Hậu biết chào hỏi chút chút thôi. Bất chợt cô Lìn nằm xoãi ra giữa nhà, tay chân co giật nhẹ, miệng méo xẹo, hai mắt nhắm nghiền. Hậu hoảng kinh ngỡ cô Lìn trúng gió hay mắc kinh phong. Cô Phùng và Diệc Thành thì thản nhiên như chẳng có gì xảy ra. Diệc Thành nói với Hậu:
    – Cậu lại ôm chế một cái đi!
    – Í, đâu có được, chế của mầy cũng là chế tao, sao làm vậy!
    – Không sao đâu, hổng có ý bậy bạ gì đâu. Mầy ôm một cái là làm phước đó! Chế mắc bệnh đàng dưới, thỉnh thoảng bị lên cơn nhất là những khi gặp trai đẹp. Những lúc ấy chỉ cần có đàn ông con trai ôm nhẹ một cái cho có mùi hơn đàn ông thì sẽ khỏi ngay.
    Hậu thấy thật khó xử nhưng người ta đang như vậy mà không giúp cũng không được nên miễn cưỡng bước lại ôm cô Lìn, quả thật cứ như phép màu, chỉ chốc lát là cô Lìn tỉnh lại cười nói huyên thuyên như thể chưa xảy ra chuyện gì.
    Ra khỏi nhà cô Phùng, Hậu nói với Diệc Thành ghé vô chùa Ông bỔn chơi, đi qua nhiều lần mà chưa bao giờ vô. Chùa nhỏ xíu chứ hổng lớn như miếu Nhị Phủ, trong ngoài chùa toàn tiếng Tàu. Hậu hổng đọc được, chánh điện có quá nhiều tượng. Hậu chỉ biết có mỗi tượng Quan Công và ông nhật bà nguyệt trên nóc, tiếng là chùa nhưng hổng thấy thờ Phật, chỉ thấy Ông Bổn và mấy vị thần người Tàu thôi. Chùa có năm bà già Tiều, giống hệt cô Phùng, tuổi cũng trạc vậy. Diệc Thành nói mấy bả cô đơn nên ở nhờ chùa và cũng là người chăm nom đèn đóm hoa quả, quét dọn chùa luôn. Thực Phẩm thì có mấy đại gia tộc Trần và những xì thẩu khác cung cấp.
 
***
 
Hậu lên Sài Gòn ở nhờ nhà Dì Tư để đi học, nhà Dì Tư là láng giềng thân với nhà Diệc Thành, hai đứa trạc tuổi nhau nên chơi thân luôn. Nhà Diệc Thành là đầu mối bỏ hạt keo PP, PE cho xưởng túi nylon của nhà Dì Tư, mỗi tuần Diệc Thành đến nhà Dì Tư để cộng sổ thâu tiền. Hai thằng gặp nhau, nói chuyện linh tinh hạp tánh và nó dạy cho Hậu những câu tiếng Tiều thông dụng hàng ngày. Những lúc rảnh nó ghé qua chở Hậu đi chơi. Hậu thích ngắm nghía phố phường nên nó chở Hậu đi khắp các ngỏ ngách của Chợ Lớn. Nhờ vậy mà Hậu khám phá ra một thế giới khác biệt với xã hội người Việt, một thế giới lắng đọng trầm tích ở đằng sau những con đường sầm uất ở bên ngoài. Một thế giới tĩnh lặng gần như thời gian ngừng trôi, rất khác với sự hào nhoáng của mặt tiền Đồng Khánh, Châu Văn Liêm, Lê Quang Sung, Hải Thượng Lãng Ông, Tuệ Tĩnh, Dương Công Trình...Những xóm nhỏ người Hoa vô cùng đông đúc, nhà cửa ken kín, những xóm người Hoa cứ như là những tiểu trấn bên Tàu từ thời xa xưa. Dưới quê của Hậu vốn khác với Sài Gòn, chưa bao giờ thấy những xóm toàn người Hoa như thế, đừng nói là dưới quê, ngay cả Sài Gòn trung tâm cũng khác hẳn với Chợ Lớn. Phải nói Chợ Lớn và những hẻm phía sau đường lớn là một thế giới khác biệt đã làm Hậu mê mẩn, ngoài ra những món ăn của người Tàu cũng kích thích Hậu, Hậu quất không chừa món nào từ mì xào, hủ tíu xào, bột chiên, tào phớ, chế mà phủ, lục tào xá, xá bấu, coón sại… món nào cũng ngon bá cháy luôn. Người Việt cũng biết làm mì xào nhưng không thể nào ngon bằng, cho dù có là nhà hàng sang trọng cũng không bằng dĩa mì xào lề đường ở Chợ Lớn. Ngon quá, ăn cỡ nào cũng không hết thèm nhưng ngon hơn như thế nào thì Hậu hổng biết tả.
    Một lần Diệc Thành chở Hậu về nhà nó chơi, gặp bữa cơm vậy là ăn luôn. Hậu thấy nồi cháo trắng đặc sệt to tướng trên bàn. Cháo trắng ăn với củ cải muối, xá bấu, Cải cà na, coón sại… ăn cháo trắng mà lại ăn bằng đũa. Hậu thấy lạ quá, Diệc Thần nói:
    – Người Tiều giàu hay nghèo cũng đều ăn cháo trắng, ăn hằng ngày, có người ăn cả ba buổi trong ngày.
    Vậy ra cháo trắng là món đặc sản quốc hồn quốc túy của người Tiều, dù ở đâu, dù đi đâu thì người Tiều cũng luôn ăn cháo trắng. Những xì thẩu của chợ lớn ăn không thiếu món ngon vật lạ gì trên đời nhưng trong bữa ăn vẫn có chén cháo trắng. Nhà Diệc Thần là một xì thẩu ở Chợ Lớn, cả nhà nói tiếng Tiều với nhau, chỉ nói tiếng Việt khi giao tiếp với người Việt. Ngoài A Dánh là ba và A Má là mẹ, Diệc Thần có cô em gái kề rất đẹp, đẹp như sách vở viết vậy, con nhỏ trắng phỉu, má hồng hồng, hổng biết ra đường ăn mặc sao chứ ở nhà cứ mặc mấy bộ đồ sặc sỡ bông hoa như mấy cô xẩm Tiều trong phim bộ Hồng Kông. Lần đầu gặp ẻm, Hậu thích ghê luôn vậy đó:
    – Nỉ hạo, nị đẹp quá, tui tên Hậu.
    – Nỉ hạo, anh là cháu dì Tư hãng túi nylon Hồng Ký phải không?
    Hậu hơi bất ngờ vì sự dạn dĩ và mau miệng của ẻm. Hậu cứ ngỡ ẻm bẻn lẽn, mắc cỡ như những cô gái ngoan ở nhà. Hậu trổ tài miệng lưỡi:
    – Diệc Thần là bạn anh, vậy mà nó xạo, nó nói em đẹp
    Đến lượt ẻm hơi bị thốn, vẻ mặt hơi chững lại nhưng vẫn tự tin:
    – Bộ em xấu hả?
    – Không phải vậy, phải nói là rất đẹp, đẹp bá cháy luôn, chỉ nói đẹp là xạo, là dìm hàng con người ta.
    Ẻm được khen nên thích chí cười nắc nẻ, vẻ mặt tươi như hoa và hồng hào như đánh phấn:
    – Con trai Diệt Nam dẻo miệng dễ sợ.
    Hậu và ẻm đang nói chuyện ngon lành thì Diệc Thần xía vô:
    – Hậu, mầy bán đứng tao để tán  Kíu Cúa em gái tao?
    – Hổng phải, tao chỉ đính chính thôi, mầy nói Kíu Cúa đẹp nhưng thật ra phải nói là rất đẹp mới đúng.
    Bấy giờ đang giấc xế, mọi người bắc ghế ngồi ngoài hiên chơi, trời nắng chang chang nhưng chẳng nhằm nhò gì. Có lẽ mọi người cũng quen với cái nắng Sài Gòn kể từ sanh ra rồi.  Hậu rủ:
    – Tụi mình xuống Nguyễn Tri Phương ăn bò bía nha?
    Gì chứ nói chuyện ăn hàng thì xưa nay chưa có ai từ chối bao giờ, Diệc Thần chở Kíu Cúa bằng chiếc Attila mới cáu, Hậu chạy song song bằng chiếc Future. Người ta nói con gái ăn ít giữ eo hoặc nói chữ “nữ thực như miêu”, điều này hình như hổng đúng với Kíu Cúa. Em quất thiệt tình luôn, những ngón tay thon dài túm cuốn bò bía quẹt tương rất điệu nghệ và tém sạch sẽ, nhìn Kíu Cúa ăn không thôi cũng đủ sướng như thể mình ăn. Bò bía, cóc, me, xoài ngâm...Kíu Cúa hổng chừa món nào, ấy vậy mà dáng em vẫn đẹp đúng nghĩa mình hạc xương mai, có lẽ tạng người của em nó thế. Hậu thích Kíu Cúa ra mặt, Kíu Cúa cũng biết nhưng cứ cười nói tỉnh bơ.
    Có lần dì Tư nói với Hậu:
    – Người Tiều họ hổng có lấy người Việt đâu!
    Có lẽ dì Tư thấy Hậu chơi với Diệc Thần, thích Kíu Cúa nên dì Tư nghĩ Hậu muốn tán Kíu Cúa. Hậu cũng biết sự khác biệt văn hóa và tập quán của hai dân tộc rất lớn, ấy là chưa nói đến những quan niệm, những luật lệ bất thành văn khác. Thật ra thì Hậu có thích Kíu Cúa nhưng không có ý định tán tỉnh gì, chỉ là đi chơi chung thế thôi. Hậu biết người Tiều quanh đây rất nhiều, họ ở Chợ Lớn đã nhiều đời. Họ chỉ lấy nhau trong cộng đồng của họ chứ chẳng lấy vợ hay lấy chồng người Việt, chí ít là trong sự thấy biết ít ỏi của mình. Hậu chưa thấy có mối tình trai Việt gái Tiều hay trai Tiều gái Việt ở đây. Không ít lần Hậu ghẹo Diệc Thần:
    – Nị gả Kíu Cúa cho ngộ đi, ngộ sẽ kêu nị là a ca.
    – Nị cứ kêu ngộ là  a ca  trước  cũng được! Sau này Kíu Cúa chịu thì ngộ gả cho.
    – Đâu có được! Phải có danh chánh trước thì ngôn mới thuận!
    – Nị tập kêu ngộ bằng a ca trước cho quen, mai kia có lấy  được Kíu Cúa thì kêu ngộ bằng a ca khỏi mắc cỡ.
    Kíu Cúa ngồi nghe hai đứa khịa, cười khanh khách, tiếng cười giòn và trong trẻo như con trẻ:
    – Bộ tui là cục đất hay sao mà ông thì đòi lấy, ông thì muốn gả?
    Hậu nhìn mặt Kíu Cúa cười:
    – Tại Kíu Cúa đẹp quá, hổng phải mình Hậu muốn lấy mà bất cứ người đàn ông nào trên đời cũng mơ được lấy.
    Diệc Thần xía vô:
    – Vậy từ giờ kêu ngộ bằng ca ca hén?
    – Còn lâu, chừng nào Kíu Cúa chịu là ngộ kêu liền.
    Kíu Cúa dẩu đôi môi đỏ mọng:
    – Chuyện của hai ông hén, mắc mớ gì tới tui! Với tui hổng có gả hay lấy gì hết trơn á!
    Ly sâm bổ lượng cạn hết nước, Kíu Cúa dùng ống hút khều khều mấy hạt câu kỷ tử đỏ như màu môi, nhấm nhấm mấy hạt còn sót. Hậu thầm nghĩ trong bụng: “Giá mà cắn chung hạt câu kỷ tử với đôi môi ấy thì sướng phải biết”. Kíu Cúa là con gái nhạy cảm, ẻm như đọc được tâm tư của Hậu nên nghi ngờ:
    – Nị cười gì Kíu Cúa vậy?
    – Hổng có chi, chỉ là cảm thấy vui và thoải mái lắm!
    –Vậy thì lúc nào muốn vui thì qua bao nị đi ăn hén!
    – Chuyện nhỏ!
    Diệc Thần ngồi im lặng, cắm cúi vào cái điện thoại di động cá nhân. Hậu lên tiếng:
    – Tối thứ bảy này tụi mình đi bar chơi?
    Không ngước mắt lên, Diệc Thần hỏi:
    – Bar nào?
    – Lan Quế Phường chơi hoài, nay qua Apocalypse Now đổi không khí!
    – Ừ! Dỉm tú tắc, sao cũng được!
    Đêm vũ trường thật máu lửa, đèn chớp chớp quét loang loáng, âm thanh dập làm cho tim tưng tưng theo. Mọi người lắc lư nhún nhảy theo nhạc như thể đang lên đồng, chẳng ai biết đến người xung quanh. Kíu Cúa mặc quần ôm áo chẽn hở eo, dáng vô cùng bốc lửa, eo thon, chân dài, tướng tá khiến ai cũng phải trầm trồ. Diệc Thần diện như công tử trong phim, nó đặt trước một cái bàn đứng gần trung tâm. Anh bồi mang ra chai Chivas  khui ra rót mấy ly shoot. Anh ta nói vài lời miệng lưỡi sau khi nhận tiền bo rồi lui đi. Quất vài ly bắt đầu tưng tưng, Hậu và anh em Diệc Thành hòa vào những người đang nhảy nhót, càng lúc càng hưng phấn lạ thường. Đêm vũ trường tràn đầy sức dụ hoặc quyến rũ, đã chơi rồi mà bỏ thì cứ thèm thèm thiếu thiếu thế nào ấy. Đêm vũ trường xả hết năng lượng thừa, xả luôn cả những căng thẳng mệt mỏi trong đời sống hàng ngày. Đêm vũ trường cho mình thể hiện mình một cách đúng với bản chất mình nhất.
    Những bàn xung quanh dân chơi hút shisha, hookah nhả khói mờ mịt, mùi bồ đà hăng hắc khắp nơi, quan sát một tí sẽ thấy những tay chơi cắn Ime, phê thuốc lắc. Mấy em cave lượn lờ săn mồi. Kíu Cúa nhìn Hậu cười đá mắt về mấy cô cave, vít đầu Hậu, hét vào tai:
    – Nị chọn một em đi!
    Hậu cười to, trong lòng hưng phấn muốn hôn Kíu Cúa một cái. Hậu thích Kíu Cúa thật, Diệc Thần cũng biết nhưng điều này quả thật tế nhị khó nói ra. Thực tế thì Kíu Cúa vẫn là em gái Diệc Thành, bởi vậy Hậu phải giữ đúng phép một người anh.
    Đêm càng khuya, dân chơi càng đông và sự dậm dật càng tăng thêm, máy lạnh chạy hết công suất, mùi khói thuốc, mùi rượu, mùi phấn son và mùi hơi người quyện vào nhau tạo thành một  cái mùi rất đặc trưng của vũ trường. Có mấy tay chơi phê thuốc cứ kê tai vào mấy cái loa để mặc cho âm thanh dập vào màng nhĩ.  Vũ trường Apocalypse Now là vũ trường chơi rất sung nhưng lịch lãm và an toàn, ở đây khách Việt nhiều hơn. Lan Quế Phường thì khách Tàu, Đài Loan, Đại Hàn nhiều hơn, mức độ chịu chơi, mức độ máu lửa thì cả hai cũng ngang ngửa nhau. Trước khi quen và chơi với anh em Diệc Thần, Hậu chỉ chơi ở Apolocalyse now, sau này mới qua Lan Quế Phường. Hậu với Diệc Thành nghéo tay không bao giờ thử bồ đà hay thuốc lắc!
    Cả ba quẩy đến hai giờ sáng thấy cũng đã đời lắm rồi nên chẩu, về đến nhà  Hậu không thay đồ cứ vậy lăn ra ngủ, trong giấc ngủ lạc vào cơn mơ lạ, thấy mình đang sống giữa một cổ trấn xa xưa nào đó. Hậu đi vào một phạn điếm và ở đấy gặp một em xẩm đẹp não nùng, đẹp thiên kiều bá mị không bút mực nào tả được. Nhìn em xẩm quen lắm nhưng không tài nào nhớ ra là đã gặp ở đâu, em xẩm hút hồn gã lai khách đường xa, làm cho gã ngẩn ngơ như lạc cung trời mộng. Gã khách lạ mê mẩn em xẩm nhưng biết mình không có cửa nào. Cả phạn điếm đầy những tài chủ và công tử địa phương, bọn họ sẵn sàng bỏ ra ngàn vàng để mong được em xẩm, ấy vậy mà rốt cuộc em lại chọn lấy gã du khách viễn phương. Em xẩm ôm hồ cầm khảy khúc “Du tử trong phạn điếm một đêm mưa”. Tiếng là để mua vui cho tửu khách trong phạn điếm nhưng thực chất tỏ tình hoài với chàng lữ khách phương xa.
    Bớ chàng trai Việt
    Khách đường xa đến đây trêu hoa ghẹo nguyệt
    Tình đầu mày cuối mắt
    Biết chàng nho nhã thi thơ
    Ngặt đời không như mơ
    Thiếp phận xẩm ca xang mua vui cho khách điếm
    Bớ chàng khách Việt!
    Em gái Tiều khó có thể theo người
    Luật bất thành văn mà bao đời vẫn thế
    Em, xẩm Tiều
    Giữ trong tâm chút thương yêu
    Nào đâu dám mộng uyên ương hồ điệp
    Không tấu khúc “Phượng cầu hoàng”
    Tình khôn ngăn cản...

 

– Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 0723

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.