Hôm nay,  

Pilates: Môn Thể Dục Ra Đời Trong Nhà Tù

22/09/202300:00:00(Xem: 2234)

Pilates 1
Trại giam tập trung Knockaloe, Isle of Man, năm 1915. Trong thời kỳ cao điểm, kriegsfangenenlager (hay ‘trại tù nhân chiến tranh’) giam giữ hơn 23,000 thường dân. Hầu hết tù nhân là người Đức, một số là người gốc Áo-Hung và một số ít người Thổ Nhĩ Kỳ. Pilates bị giam ở trại số 4 ở phía trước trong hình. (Nguồn: Knockaloe Charitable Trust, Www.knockaloe.im)
 
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
 
Kẻ địch sống giữa chúng ta
 
Joseph Pilates sinh ra ở Mönchenladbach, Đức, vào năm 1883. Cũng giống như hàng ngàn thường dân Đức sống ở Anh trong giai đoạn đầu cuộc chiến, Pilates biết mình đã sống ở sai chỗ, sai thời điểm. Khi xung đột ngày càng tăng, tinh thần chống Đức ngày càng cao, người ta nảy sinh ngờ vực với tất cả người Đức đang sống và làm việc tại Anh. Vào năm 1914, cộng đồng người Đức sinh sống ở Anh có khoảng 57,000 người.
 
Ngày 4 tháng 8 năm 1914, trong vòng 24 tiếng sau khi tuyên chiến với Đức, chính phủ Anh đã ban hành Đạo luật Aliens Restrictions Act (Đạo Luật Hạn Chế Kẻ Ngoại Bang), trong đó xác định tất cả công dân Đức ở Anh là “kẻ địch ngoại bang.” Kết quả là, bất kỳ nam giới người Đức nào trong độ tuổi nhập ngũ được tìm thấy ở Anh đều có thể tự động bị bắt hoặc bị giam giữ vì được cho là mối đe dọa đối với người dân Anh.
 
Là một người đàn ông độc thân, trình độ tiếng Anh thì hạn chế, và thường rầy đây mai đó cùng rạp xiếc, Pilates thuộc diện đối tượng tình nghi cao. Khi sống trong một nhà trọ ở Blackpool, ông buộc phải tới đồn cảnh sát địa phương để ghi danh tình trạng “người ngoại bang.” Ngay sau đó, ông bị bắt và đưa đi thẩm vấn tại Sandhurst, trước khi bị chuyển đến các trại giam giữ tạm thời ở Jersey, rồi tới Lancaster.
  
Pilates là một trong những thường dân đầu tiên trở thành tù nhân chiến tranh ở Anh trong Thế Chiến I, rồi sau đó là hàng ngàn vụ bắt giữ khác. Vào tháng 5 năm 1915, một tàu ngầm Đức đã nã ngư lôi vào Lusitania, con tàu tuần dương hạng sang đang chở khách đi từ New York đến Liverpool. Vụ tấn công tai tiếng này đã giết chết hơn 1,000 người.
 
Cuộc tấn công vào thường dân vô tội đã làm tăng thêm nỗi sợ hãi về “kẻ địch giữa chúng ta.” Lusitania là một tàu dân sự, nhưng phe Đức cảm thấy hợp lý khi tấn công nó, vì con tàu đang chở khoảng 173 tấn đạn súng trường và đạn pháo. Nhưng cuộc tấn công vô cớ đã khiến công chúng Anh phẫn nộ và gây ra làn sóng bạo loạn bài ngoại chống lại các gia đình và công ty Đức ở các thành phố lớn như Liverpool, London và Manchester. Trước làn sóng áp lực từ dư luận, chính phủ Anh nhanh chóng mở rộng Aliens Restrictions Act, và đưa ra chính sách bất ngờ giam giữ hàng loạt đối với nam giới trong độ tuổi từ 17 đến 55 là “công dân ngoại bang từ nước địch.” Đến tháng 11 năm 1915, số lượng tù nhân là dân thường đã lên tới 32,000 người.
 
Phần lớn bị giam giữ tại Trại Tập Trung Knockaloe (Knockaloe Internment Camp) trên Đảo Isle of Man. Thời đỉnh cao, nơi này giam giữ tới 23,000 người. Pilates được chuyển đến Knockaloe vào ngày 12 tháng 9 năm 1915 và chính tại nơi đây, ông sáng tạo ra bộ môn thể dục độc đáo mang tên mình.
 
Suy nghĩ như loài vật
 
Từ các buồng giam hẹp và dài, có thể dễ dàng tưởng tượng trải nghiệm bị giam cầm trong thời chiến đã mang lại nguồn cảm hứng cho các bài tập phát triển thành bộ môn Pilates như thế nào.
 
Pilates 2
Cái nhìn cận cảnh hơn về các buồng giam tại Knockaloe, nơi các tù nhân nam giới người Đức trong độ tuổi từ 17 đến 55 bị giam giữ trong Thế Chiến I. Joseph Pilates bị đưa đến đây vào năm 1915. (Nguồn: Knockaloe Charitable Trust, Www.knockaloe.im)
 
Pilates 3
Quang cảnh bên trong một trong những buồng giam. Cuộc sống ở trại rất cơ bản, nhưng cũng có nhiều hình thức sinh soạt văn hóa – với dàn nhạc, câu lạc bộ thể thao, thư viện và nhiều nhóm nghệ sĩ khác nhau trong phạm vi 3 dặm xung quanh trại. (Nguồn: Knockaloe Charitable Trust, Www.knockaloe.im)
 
Trong một tài liệu hiếm hoi được Sports Illustrated xuất bản năm 1962 khi còn sống, Pilates đã tâm sự với nhà báo Robert Wernick về khoảng thời gian ông bị giam giữ ở Isle of Man. Cuộc sống trên đảo rất đơn điệu, Pilates quan sát thấy sự sa sút về tinh thần và thể chất của những người bạn tù. Họ “chẳng có gì để xem, ngoại trừ thỉnh thoảng sẽ có một con mèo đói meo nào đó đuổi bắt chim, chuột.” Trong mắt ông, sự ủ dột của tù nhân tương phản hoàn toàn với sự năng động của những con mèo hoang sống lảng vảng quanh trại giam.
 
Pilates đặt câu hỏi: “Tại sao những con mèo kia lại có thể trạng thái tốt như vậy, mắt sáng rỡ như vậy, trong khi con người thì ngày càng xanh xao, yếu ớt, ủ dột, thờ ơ, sẵn sàng bỏ cuộc nếu bị cảm lạnh hoặc té bong gân?”
 
Theo lời kể, Pilates bắt đầu quan sát những con mèo và phân tích chuyển động của chúng một cách kỹ càng. Ông nhận ra rằng những động tác giãn cơ liên tục là chìa khóa cho sức sống của chúng. Lấy cảm hứng từ những chuyển động này, ông bắt đầu phát triển một loạt các bài tập để kéo căng cơ bắp của con người và cũng đã thử áp dụng chúng trên các bạn tù của mình. Kết quả là, những người này đã thay đổi. Và thế là “Contrology,” tên gọi ban đầu của hệ thống bài tập này, đã ra đời.
 
Pilates 4
Việc tập thể dục bắt buộc phải giới hạn trong các môn thể thao chỉ chiếm diện tích nhỏ như đấm bốc hoặc thể dục dụng cụ. Các bộ môn này rất phổ biến ở trại, chẳng hạn như buổi biểu diễn thể dục dụng cụ trong hình, diễn ra vào năm 1915, không lâu sau khi Pilates đến. (Nguồn: Knockaloe Charitable Trust, Www.knockaloe.im)
 
Pilates 5
Quá trình Pilates quan sát đám mèo hoang kiếm ăn ở quanh trại được cho là nền tảng trong sự phát triển các bài tập của ông, được gọi là Contrology. Với sức dẻo dai, khả năng giữ thăng bằng cùng tư thế nghiêm khắc, nó có nhiều phẩm chất giống với thể dục dụng cụ, được rất nhiều người nhiệt tình tập theo ở Knockaloe. (Nguồn: Knockaloe Charitable Trust, Www.knockaloe.im)
 
Trong cuộc phỏng vấn, Pilates đã nhấn mạnh tính hiệu quả của Controlology. Thí dụ, ông nói với Wernick rằng những bạn tù đã tập luyện các bài tập của ông “khi chiến tranh kết thúc, họ có hình thể đẹp hơn so với trước chiến tranh, và khi đại dịch cúm quét qua tất cả các quốc gia đã tham chiến, chẳng có ai trong số họ bị nhiễm bệnh.”
 
Nếu xét trong thời kỳ đại dịch COVID-19, một bài tập thần kỳ giúp bảo vệ chúng ta khỏi nguy cơ bị nhiễm vi rút có thể sẽ bị nghi ngờ là “fake news”. Pilates đã không ngừng tìm cách quảng bá Contrology như một hệ thống tập luyện chữa bách bệnh, nhưng tất nhiên là không có bằng chứng nào.
 
‘Căn bệnh dây thép gai’ (Barbed-wire disease)
 
Dù không có bằng chứng, nhưng những mô tả của Pilates về bầu không khí trong trại giam là hoàn toàn chính xác và phù hợp với những chuyện kể về cuộc sống ở Knockaloe. Sau khi thăm khám sức khỏe ở các trại giam trong Thế Chiến I, bác sĩ người Thụy Sĩ Adolf Lukas Vischer đã đặt ra thuật ngữ “căn bệnh dây thép gai” để mô tả một hội chứng tâm thần ở các tù nhân chiến tranh sau khi bị giam giữ.
 
‘Căn bệnh dây thép gai’ xảy ra sau thời gian bị giam giữ lâu dài và gây ra sự buồn chán, lú lẫn, ý thức mờ mịt và chứng mất trí nhớ. Các triệu chứng này khớp với sự phản ánh của Pilates về trạng thái tinh thần của những người bạn tù xung quanh ông. Chiến tranh luôn mang lại những đau đớn và tổn thương không thể bù đắp. Nếu như những người ở tiền tuyến phải trải qua hội chứng “sốc đạn pháo”, thì những tù binh bị nhốt trong các trại giam sẽ phải đối mặt với ‘căn bệnh dây thép gai’.
 
Tù nhân được phép tham gia các hoạt động để giảm bớt gánh nặng tâm lý. Ca hát, biểu diễn và thể thao là hoạt động chính ở Knockaloe thời bấy giờ. Một bài báo xuất bản vào tháng 1 năm 1917 liệt kê Pilates là trọng tài của một trận đấu quyền anh, cũng xác nhận rằng ông đã áp dụng hệ thống các bài tập thể dục của mình. Tuy nhiên, ngoài số bằng chứng ít ỏi và những giai thoại do chính Pilates kể lại, hầu như chẳng còn chi tiết nào về khoảng thời gian sống tại Knockaloe của ông.
 
Alison Jones, chủ tịch của Knockaloe Charitable Trust, một tổ chức tình nguyện trên Đảo Isle of Man đang tìm cách lưu giữ những câu chuyện về các tù nhân trong trại giam này cho các thế hệ tương lai. Bà cho biết: “Có rất nhiều khả năng có thể xảy ra. Về sau, ông có kể đã làm việc tại một trong những bệnh viện trong trại giam và sử dụng các lò xo trên giường bệnh để phát triển những thiết bị Pilates đầu tiên. Tất cả những điều này nghe rất hợp lý, nhưng chúng tôi vẫn chưa tìm được bằng chứng cụ thể. Cần phải nhớ là có hơn 30,000 người từng được luân chuyển đến trại. Chúng tôi nhận được vô số phản hồi từ con cháu của những cựu tù nhân, họ có một số tài liệu hoặc những vật chứng mới muốn chia sẻ. Chỉ vì chúng ta chưa có thêm nhiều thông tin chi tiết và cụ thể về Pilates, không có nghĩa là nó có thể không xảy ra.”
 
Tiếp tục phát triển sau khi tự do
 
Sau khi được trả tự do vào tháng 3 năm 1919, Pilates được hồi hương về Đức ở tuổi 36. Những năm này, tập thể dục tiếp tục là công việc chính của ông; ông đã dành một thời gian để hỗ trợ cảnh sát Hanover trong việc rèn luyện thể chất và làm việc với các vũ công để giải quyết các vấn đề liên quan đến thể chất. Công việc này đã đưa ông tiếp xúc với vũ công nổi tiếng Hanya Holm, người sau này chuyển đến New York và trở thành 1 trong 4 nhà sáng lập lớn của bộ môn múa hiện đại Mỹ. Holm là một minh chứng tốt cho tầm nhìn của Pilates. Năm 1926, ông tham gia vào dòng người Châu Âu đến Đảo Ellis, New York, ôm ấp giấc mộng nhập cư.
 
Thời điểm này, Pilates đã ngoài bốn mươi và sẵn sàng bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới. Trên đường đến New York, ông gặp gỡ một phụ nữ người Đức tên là Clara Zuener, sau này trở thành người bạn đời lâu dài của Pilates, cả về tình cảm lẫn sự nghiệp. Họ cùng mở một studio quảng bá các nguyên tắc của Contrology cho một nhóm những người theo gót, một nhóm tuy không nhiều người nhưng trung thành và có sức ảnh hưởng.
 
Phòng “gym” đầu tiên của họ – Joseph H. Pilates Universal Gymnasium – mở cửa vào năm 1927 tại 939 Eighth Avenue và tồn tại hơn bốn mươi năm. Thời điểm đó, văn hóa tập thể dục chưa thịnh hành rộng rãi như ngày nay. Pilates chỉ trích nặng nề lối sống của dân Mỹ và tin rằng ông sẽ mang đến một liều thuốc giải độc đáo cho những áp lực và cám dỗ của cuộc sống hiện đại ở Hoa Kỳ. Những mối quan hệ trong giới khiêu vũ của ông đã giúp thu hút một lượng khách uy tín đến với studio, bao gồm cả biên đạo múa Martha Graham. Trong hai thập niên tiếp theo, Pilates cố gắng mở rộng triết lý tập luyện của mình ra ngoài giới khiêu vũ. Ông xuất bản hai tác phẩm: Your Health (1934) và Return to Life Through Contrology (1945) để quảng bá Controlology như một hệ thống tập luyện toàn diện cho tâm trí và cơ thể.
 
Pilates quyết tâm thuyết phục công chúng và các cơ sở y tế rằng Controlology là liều thuốc hiệu quả nhất. Với khuynh hướng chào hàng táo bạo, ông hứa hẹn rằng: “Return to Life sẽ giải thích đầy đủ cách quý vị có thể đạt được thành công xứng đáng: có được thể chất khỏe mạnh ngay tại nhà với chi phí chẳng đáng là bao.” Nhưng cho đến khi qua đời vào năm 1967, Pilates vẫn thất vọng vì các cơ sở y tế vẫn chưa chịu tiếp thu những ý tưởng mang tính cách mạng của ông.
 
John Howard Steel, một trong những học viên cuối cùng còn sống của Pilates và là tác giả của Caged Lion, một tác phẩm kể về tình bạn lạ thường của họ, có nói về những ám ảnh của Pilates.
 
Steel nói với tạp chí National Geographic: “Tất cả những gì ông ấy quan tâm là Controlology. Ông ấy bị ám ảnh với nó. Đó là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời ông. Đó là tất cả những gì ông có. Nên nhớ lúc ông đến New York là đã ngoài 40 tuổi, trong tay không có bất kỳ bằng chứng xác thực nào. Ông ấy cũng không phải là bác sĩ, và cũng không có công việc gì đáng kể. Ông đặt chân lên Đảo Ellis với suy nghĩ ‘Mình sẽ bắt đầu lại từ đầu.’”
 
Steel gặp Pilates lần đầu tiên vào năm 1963, đã qua những ngày vinh quang của một ngôi sao sáng của giới khiêu vũ. Lúc này Pilates đã ở độ tuổi tám mươi, nhưng vẫn có vóc dáng của “một võ sĩ quyền anh sẵn sàng lâm trận.” Dần dần, họ đã hình thành một tình cảm như ông nội và cháu trai; nhưng dù Pilates có dần thân thiết với Steel như thế nào, thì ông vẫn giữ lại một số điều của riêng mình.
 
Steel cho biết: “Ông ấy chưa bao giờ kể về bất cứ điều gì trong quá khứ. Giống như là đã xóa sổ nó ra khỏi cuộc đời vậy. Đối với Joe, quá khứ không tồn tại.”
 
Kết quả là, vẫn còn nhiều điều bí ẩn giữa một “Joe” mà Steel quen biết và một Joseph Pilates thật sự. Điều gì thực sự đã đưa ông đến Anh ngay trước thềm chiến tranh? Pilates là một nghệ sĩ biểu diễn xiếc thật sự hay có quan hệ với quân đội? Tiền đâu mà ông có thể tới New York? Liệu trước đó Pilates từng lập gia đình chưa?
 
Dù sự thật có là gì, thì Steel cũng đồng ý rằng trải nghiệm ở Knockaloe đã định hình nên một Pilates mãi mãi về sau. Trong Caged Lion, Steel kể lại những lần cùng Pilates đến Central Park Zoo:
 
“Joe sững sờ khi nhìn những con vật họ mèo to lớn bị nhốt trong lồng. Mỗi khi một con vật có hành động gì đó thu hút sự chú ý của ông, ông sẽ gõ nhẹ vào chân tôi và chỉ ra. Sau đó, ông sẽ giải thích cho tôi tại sao con vật đó lại làm những động tác đó và cách ông kết hợp bài tập đó vào Controlology… Tôi nhận ra ông đang quan sát chính bản thân mình trong cái lồng đó. Ông quá hiểu cảm giác bị nhốt trong lồng là như thế nào.”
 
Trong những năm 1970 và 80, các cựu học viên tiếp tục thực hành phương pháp của Pilates, điều chỉnh các bài tập lại cho phù hợp với các nhu cầu khác nhau, mở các studio bên ngoài New York và hiện đại hóa các thiết bị. Tuy nhiên, sự tiến hóa này không phải là một quá trình tuyến tính. Đến những năm 90, những tranh chấp về việc ai có thể sử dụng thương hiệu Pilates đã chia rẽ cộng đồng vốn đã ít ỏi, đỉnh điểm là một cuộc chiến pháp lý kết thúc vào tháng 10 năm 2000. Kết quả của vụ kiện đã cấm bất kỳ ai được độc quyền sử dụng thuật ngữ ‘Pilates,’ nghĩa là nó được dùng để chỉ một phương pháp tập thể dục mà bất cứ ai cũng có thể thực hành. Ngày nay, Pilates được hàng triệu người trên khắp thế giới tập luyện và đã bùng nổ thành một ngành công nghiệp trị giá hàng tỷ MK.
 
Suy ngẫm về di sản trường tồn của Pilates, Steel nhắc lại trải nghiệm của người hướng dẫn ông khi còn là tù nhân chiến tranh. Ông nói: “Ngày nay, phương pháp này đã thay đổi rất nhiều, nhưng nguồn gốc của nó vẫn là từ trại giam Knockaloe. Ngày qua ngày, Pilates nằm đó, cố gắng tìm ra cách sử dụng cơ thể của mình trong không gian chật hẹp. Ông đã tìm ra thứ gì đó hữu ích cho mọi người trong thế giới hiện đại, vì tất cả chúng ta đều sống một cuộc sống tù túng như nhau. Hầu hết mọi người hiện nay đều dành thời gian ngồi trong văn phòng, sống trong các tòa nhà chật ních. Có thể nói, điều mà ông ấy đã khám phá ra là cách để sống trong buồng giam của cuộc đời.”
 
Nguyên Hòa biên dịch
Nguồn: “The exercise phenomenon born in a prisoner-of-war camp” của Yosola Olorunshola, được đăng trên trang Nationalgeographic.co.uk.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thuế quan — thứ từng vắng bóng trên mặt báo suốt nhiều thập niên — nay trở lại trung tâm chính sách kinh tế Hoa Kỳ, trong lúc Tối Cao Pháp Viện đang xét tính hợp hiến của các mức thuế toàn cầu do Tổng thống Donald Trump ban hành. Bài viết dưới đây, theo phân tích của Kent Jones, giáo sư kinh tế danh dự Đại học Babson, đăng trên The Conversation ngày 11 tháng 12 năm 2025, nhằm giải thích cặn kẽ thuế quan là gì, ai thực sự gánh chịu, và vì sao vấn đề này đang tác động trực tiếp đến túi tiền và tương lai kinh tế nước Mỹ. Thuế quan, nói gọn, là thuế đánh lên hàng hóa nhập cảng. Khi một công ty Hoa Kỳ nhập hàng từ nước ngoài, Cơ quan Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ sẽ gửi hóa đơn thuế; doanh nghiệp phải nộp đủ thì hàng mới được thông quan. Trên giấy tờ, người trả thuế là nhà nhập cảng. Nhưng trên thực tế, phần lớn chi phí ấy được chuyển thẳng sang người tiêu dùng qua giá bán cao hơn — từ thực phẩm, xe cộ cho đến quà tặng cuối năm.
Vào những ngày cuối tháng Tám của năm 2025, tôi cùng hai đồng nghiệp đã quyết định từ bỏ chức vụ tại Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC). Chúng tôi ra đi vì không thể tiếp tục im lặng khi chứng kiến tính liêm chính khoa học ngày một xói mòn, còn cơ sở hạ tầng y tế công cộng của quốc gia cứ dần rệu rã dưới sự lãnh đạo của Robert F. Kennedy Jr., Bộ trưởng Bộ Y tế và Nhân sinh (HHS). Khi đó, chúng tôi đã khẩn thiết kêu gọi Quốc Hội, các tổ chức chuyên ngành và các bên liên quan trong lĩnh vực y tế công cộng hãy can thiệp trước khi xảy ra những thiệt hại không thể cứu vãn. Tôi rời đi với niềm tin mọi thứ rồi sẽ được chấn chỉnh.
Khi nhìn bản đồ thế giới và duyệt xét lịch sử hình thành, chúng ta nhận thấy có rất nhiều điểm tương đồng giữa Canada và Úc Đại Lợi.
Người Việt miền Nam từng trải qua một bài học cay đắng: sau 1975, những lời nói về “thống nhất” và “hàn gắn” không bao giờ đi cùng sự nhìn nhận. Không một lời chính thức nào nhắc đến các trại cải tạo, những cuộc tước đoạt, hay những đời sống bị đảo lộn dưới tay những người nhân danh chiến thắng. Không có sự thật, hòa giải chỉ là chiếc khẩu hiệu rỗng. Câu chuyện nước Mỹ hôm nay, khi chính quyền muốn làm mờ các chứng tích về chế độ nô lệ, cho thấy một điều quen thuộc: không quốc gia nào trưởng thành bằng cách giấu đi phần tối. Sự thật không tự biến mất chỉ vì người ta muốn quên.
Hai mươi năm trước, Thống đốc Jeb Bush ký đạo luật “stand your ground” (đứng vững tại chỗ), được giới ủng hộ xem là một biện pháp chống tội phạm dựa trên “lý lẽ thường tình”. Lời hứa khi ấy: bảo vệ người dân tuân thủ pháp luật khi họ dùng vũ lực để tự vệ. Sau vụ George Zimmerman được tha trong cái chết của Trayvon Martin, đồng bảo trợ dự luật, dân biểu Dennis Baxley, vẫn bảo rằng “trao quyền” cho người dân sẽ giúp chặn bạo lực.
“Di sản, còn có thể mang hình thức phi vật thể của lối nghĩ, lối sống, lối hành động, mà con người miền Nam khi xưa đã được trau dồi, hun đúc qua tinh thần của thể chế, của một nền dân chủ hiến định. Chính con người, chính cộng đồng xã hội mới là trung tâm và cũng là cội nguồn lẫn mục đích của mọi bản hiến pháp.” – Hải Sa, “Ngót 60 năm từ một khế ước nhân quyền dang dở,” trang 56 Cùng với tin tạp chí Luật Khoa vừa được đề cử giải thưởng Tự Do Báo Chí năm 2025 của Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, ban chủ trương trong một thư tới độc giả vào cuối tháng 10 đồng thời thông báo việc phát hành ấn bản đặc biệt với chủ đề “70 Năm Việt Nam Cộng Hòa – Chân Dung & Di Sản” gồm 86 trang, với 14 bài vẽ lại hành trình từ ra đời tới bị bức tử của nền dân chủ duy nhất của Việt Nam và di sản của thể chế yểu mệnh này để lại. Bài này nhằm điểm qua nội dung của ấn bản đặc biệt này, và sẽ chú trọng vào một bài đã gợi nơi người viết một suy tư sâu sắc.
Một nhóm sử gia, thủ thư và tình nguyện viên đang gấp rút chạy đua với thời gian – và với chính quyền Trump – để giữ lại những mảnh ký ức của nước Mỹ.Từ hình ảnh người nô lệ bị đánh đập, các trại giam người Mỹ gốc Nhật trong Thế Chiến II, đến những bảng chỉ dẫn về biến đổi khí hậu ở công viên quốc gia, tất cả đều có thể sớm biến mất khỏi tầm mắt công chúng. Trong vài tháng gần đây, hơn một ngàn sáu trăm người – giáo sư, sinh viên, nhà khoa học, thủ thư – đã âm thầm chụp lại từng góc trưng bày, từng bảng giải thích, để lập ra một kho lưu trữ riêng tư. Họ gọi đó là “bản ghi của công dân” – một bộ sưu tập độc lập nhằm bảo tồn những gì đang tồn tại, trước khi bị xoá bỏ bởi lệnh mới của chính quyền.
Hai trăm mười một năm trước, mùa hè năm 1814, quân Anh kéo vào Washington. Trước khi phóng hỏa Bạch Ốc, họ ngồi xuống dùng bữa tại bàn tiệc đã dọn sẵn cho Tổng thống James Madison. Khi bữa ăn kết thúc, lính Anh đốt màn, đốt giường, và tòa nhà bốc cháy suốt đêm. Sáng hôm sau, cơn mưa lớn chỉ còn rửa trôi phần tro tàn của nơi từng là biểu tượng cho nền cộng hòa non trẻ. Tuần này, phần Cánh Đông của Bạch Ốc bị phá sập. Không phải bởi ngoại bang, mà bởi chính quyền tại vị. Và lần này, không ai được báo trước. Người Mỹ chỉ biết chuyện qua những bức ảnh máy xúc cày nát nền nhà, cùng lời xác nhận ngắn ngủi từ các viên chức trong chính phủ.
Hai trăm năm rưỡi sau ngày dựng cờ độc lập, nước Mỹ vẫn chưa thoát khỏi chiếc bóng của bạo lực. Mỗi khi một viên đạn nổ, người ta lại nói: “Đây không phải là nước Mỹ.” Nhưng chính câu nói ấy lại là cách người Mỹ tránh nhìn thẳng vào chính mình. Bài viết của giáo sư Maurizio Valsania (Đại học Torino), đăng trên The Conversation ngày 12 tháng 9, 2025, nhắc lại lịch sử mà nhiều người muốn quên: từ nhựa đường và lông gà đến súng ngắn buổi bình minh — một mạch dài nối liền hai thế kỷ, nơi tự do và bạo lực chảy cùng dòng máu.
Một cuộc thăm dò dư luận của AP-NORC thực hiện vào tháng 9 & 10 cho thấy hầu hết dân Mỹ coi việc chính phủ đóng cửa hiện tại là một vấn đề nghiêm trọng và đổ lỗi cho cả hai Đảng Cộng Hòa, Đảng Dân Chủ và cả Tổng Thống Trump với những tỷ lệ gần như ngang nhau. Cuộc thăm dò cũng cho thấy người Mỹ lo lắng về kinh tế, lạm phát và bảo đảm việc làm. Họ đang giảm những chi tiêu không thiết yếu như quần áo và nhiên liệu. Đa số cho rằng nền kinh tế yếu kém. Chi phí thực phẩm, nhà ở và chăm sóc sức khỏe được coi là những nguồn chính gây khó khăn tài chính.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.