Hôm nay,  

Người Việt Di Dân Sau 48 Năm (1975-2023) – Phần II

27/09/202307:15:00(Xem: 4698)
Biên khảo

https://www.advite.com/bshien_images/Vietnamese_Diaspora_1_small.JPG


Những thay đổi trong đời sống của người Mỹ gốc Việt qua 48 năm

 

Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác. Ví dụ nổi bật nhất của những vùng đất này là “Little Saigon” ở Quận Cam, California. Gần đây hơn, dân số người Mỹ gốc Việt vào khoảng trên hai triệu người, đây là số người Việt Nam lớn nhất sống ngoài Việt Nam. Việc tái định cư của người Việt nhập cư vào một cộng đồng người Mỹ gốc Á giúp họ dễ dàng thích nghi với một nền văn hóa mới như vậy.
 
little saigon business.jpg
Little Saigon, California, thuộc Orange County.
 
Cách Los Angeles khoảng 45 dặm (72 km) về phía nam, Westminster từng là một thành phố ngoại ô thuộc tầng lớp trung lưu chủ yếu là người da trắng của Quận Cam (Orange County) với nhiều đất nông nghiệp, nhưng thành phố này sau đó đã xuống dốc vào những năm ‘70.
    Năm 1975, 50.000 người Việt đáp máy bay xuống phi trường El Toro ở Camp Pendleton Marine Corps Base. “Lính Thủy quân lục chiến dựng một thành phố lều đồ sộ trên sườn đồi bụi bặm của Trại Pendleton và múc ra những bát phở bò, mì phết bơ và cơm trắng với dưa chuột thái lát. Một số TQLC mở ví bỏ tiền mua đũa cho người tỵ nạn. Nhưng không phải ai cũng chào đón họ như vậy. Lúc đầu, Quận Cam bảo thủ có vẻ không phù hợp với nghững người Việt mới đến này. Gần như ở mọi ngã rẽ, họ đều bị hắt hủi, đổ lỗi và bị bảo là hãy giống người Mỹ hơn. Nhưng hóa ra chính trị chống cộng, tinh thần cạnh tranh và trái tim kinh doanh của họ cũng giống như người Mỹ.” (6)
    Từ năm 1978, trung tâm của Little Saigon từ lâu đã là Đại lộ Bolsa. Những người tiên phong như Danh Quách mở một nhà thuốc tây với vốn 37 ngàn đô la và Frank Jao buôn bán nhà cửa. Tên Việt của Frank Jao là Triệu Như Phát, ông người Việt gốc Hoa ở Hải Phòng, di cư vào Đà Nẵng năm 1954 và theo học lớp về địa ốc tại một trường đại học cộng đồng sau khi tới Mỹ. Ông hiện là một trong 4 tỷ phú gốc Việt tại Mỹ, và là chủ nhân nhiều cơ sở thương mại lớn ở Little Saigon, hoạt động từ thiện và là chủ tịch của Quỹ Giáo dục Việt nam (Vietnamese Education Fund). Cũng năm đó, Nhật báo Người Việt nổi tiếng cũng bắt đầu xuất bản từ một tư gia ở Garden Grove.
    Những người Mỹ gốc Việt mới đến khác đã sớm hồi sinh khu vực bằng cách mở cơ sở kinh doanh của riêng họ tại các cửa hàng cũ trước đây thuộc sở hữu của người da trắng và các nhà đầu tư đã xây dựng các trung tâm mua sắm lớn có nhiều doanh nghiệp kinh doanh. Cộng đồng và doanh nghiệp Việt Nam sau đó đã lan sang Garden Grove, Stanton, Fountain Valley, Anaheim và Santa Ana lân cận. Năm 1988, một biển báo đường cao tốc tắt được đặt trên Xa lộ Garden Grove (Quốc lộ 22) chỉ định các lối ra dẫn đến Little Saigon.
    Vùng đô thị Washington (Washington Metropolitan Area) là một nơi khác được những người nhập cư Việt Nam đến định cư ưa chuộng vì nhiều lý do. Nhiều người Việt Nam trong làn sóng nhập cư đầu tiên có quan hệ với chính phủ hoặc đại sứ quán Hoa Kỳ. Bắc Virginia nổi lên như một địa điểm thích hợp trong khu vực để tái định cư vì nhiều lý do. Các quan chức Đại sứ quán đã hướng những người tị nạn về phía Bắc Virginia, và quận Arlington có các nhà tài trợ như Giáo hội Công giáo. Sau khi làn sóng người nhập cư đầu tiên định cư ở vùng Clarendon, thuộc Arlington phía bên này sông Potomac, đối diện với Washington, DC, các mối quan hệ gia đình và xã hội có sẵn tạo nên mạng lưới để những người nhập cư trong tương lai gia nhập nhóm dân cư này. Lúc đầu, 15% (3.000 người) dân số Việt Nam ở Mỹ cư trú tại khu vực Washington, D.C. và nhiều người khác tham gia sau đó. Các khu vực đông người Việt định cư nhất ở Bắc Virginia là khu phố Clarendon dọc theo Đại lộ Wilson và Columbia Pike, kéo dài về phía tây tới Falls Church và Annandale. Sau đó một thời gian, vì khu Clarendon được chỉnh trang và xây dựng lại sau khi có đường metro đi ngang qua, các cơ sở kinh doanh của người Việt phải dời đi chỗ khác, và nơi đến mới là Trung Tâm Eden, ở khu Seven Corners, thành phố Falls Church, thuộc Fairfax County. Một luật sư người Việt ông Nguyễn Văn Gioan mướn lại một siêu thị Grand Union đã đóng cửa từ lâu, gia đình ông hùn hạp, chia ra làm nhiều ngăn nhỏ cho ngừoi Việt thuê. Tên EDEN được chọn vì lý do giản dị là chỉ gồm có 4 chữ cái nên làm bảng hiệu ít tốn kém hơn, theo lời bà Gioan kể lại.
 
https://www.advite.com/bshien_images/Eden_Center.jpg
Trung tâm Eden, thành phố Falls Church, tiểu bang Virginia.
 
Năm 1984, trung tâm mua sắm Eden Center khai trương, mang lại 20.000 sf không gian bán lẻ giá cả phải chăng cho khu vực. Năm 1997, chủ Do Thái lấy lại khu địa ốc này và 32.400 square feet đã được thêm vào Trung tâm Mua sắm Eden, cũng như một tháp đồng hồ mang tính biểu tượng nhắc đến tháp đồng hồ chợ Bến Thành, một cổng chào và vào thời điểm đó, đây là một trong những khu mua sắm lớn nhất của người Việt ở Hoa Kỳ. Trung tâm Eden trở thành một trung tâm thương mại và hoạt động của người Việt Nam. Năm 2007, "Ra khỏi Sài Gòn, Vào Little Saigon," (Exit Saigon, Enter Little Saigon) một cuộc triển lãm lưu động của Trung Tâm Người Mỹ Gốc Châu Á Thái Bình Dương thuộc viện Smithsonian, trong chuyến du hành khắp nước Mỹ trong 3 năm, tạm thời được đặt tại Trung tâm Eden để kể câu chuyện về trải nghiệm di cư và thích nghi của người Mỹ gốc Việt ở Mỹ. Trung tâm Eden hiện nay được coi là nơi tập trung các dịch vụ và hàng hóa của Việt Nam tại Bắc Virginia, cũng như toàn bộ Bờ Đông. Vào năm 2014, Eden Center là nơi có 120 cửa hàng và nhà hàng, hầu hết đều là của người Việt Nam.
    Có những căng thẳng giữa lực lượng cảnh sát của Falls Church, một thành phố nhỏ nhưng giàu có bậc nhất nước Mỹ với chừng 15 ngàn dân, và giới buôn bán ở Trung Tâm Eden. Vào ngày 11 tháng 8 năm 2011, các đặc vụ liên bang, Cảnh sát Bang Virginia và cảnh sát địa phương đã cùng nhau đột kích vào một số cơ sở kinh doanh ở Trung tâm Eden, thu giữ hơn 1 triệu đô la tiền mặt từ một cơ sở kinh doanh và một lượng nhỏ từ các cơ sở kinh doanh khác. Ngoài ra họ còn thu giữ một số “máy đánh bạc”; và 19 người bị bắt vì tình nghi phạm tội cờ bạc và rượu (gambling and alcohol crimes). Cảnh sát đổ lỗi cho băng đảng Dragon Family, một băng nhóm tội phạm người Mỹ gốc Việt hoạt động tại các trung tâm của người Mỹ gốc Á trên khắp Bắc Mỹ. Không có cáo buộc trọng tội (felony) nào được đưa ra, và cuối cùng, mặc dù một số bị cáo đã nhận tội, nhưng nhiều người đã bị hủy bỏ vụ án trước khi xét xử (cases dismissed). Ít nhất một bị cáo đã ra tòa và được tuyên vô tội. Cuộc đột kích đã gây ra căng thẳng giữa các cơ sở kinh doanh của Trung tâm Eden và chính quyền Thành phố Falls Church. Sau cuộc đột kích thứ hai, 5 tháng sau, các nghi phạm đã bị bắt giữ với nhiều tội danh đánh bạc và rửa tiền, nhiều người trong cộng đồng cáo buộc cảnh sát phân biệt chủng tộc và điều tra yếu kém.
    Hiện nay khu Eden đóng góp trên một triệu đô la thuế mỗi năm cho ngân quỹ thành phố Falls Church. Thành phố vừa công bố một dự án lâu dài để nâng cấp khu Eden cùng với vùng nhỏ bao quanh. Người Việt địa phương cũng đang tự tổ chức để có tiếng nói mạnh mẽ hơn vào quá trình cải thiện khu phố này đồng thời bảo vệ bản sắc Việt nam cũng như ngăn ngừa đừng để quá trình “gentrification” làm cho các tiểu thương người Việt bị loại bỏ khỏi khu phố này vì giá cả tăng quá nhanh.
    Một điểm đáng chú ý đối với vùng Hoa Thịnh Đốn gần thủ đô Mỹ, là khác với những nơi khác như ở Cali, người Việt ở đây chỉ sinh hoạt thương mãi tập trung ở khu Eden; tư gia của họ không quy tụ về một nơi mà họ sống xen kẽ cùng với các sắc dân khác, đặc biệt là người da trắng trong các vùng ngoại ô có tính các cư dân (residential).
 
Người Việt thích ứng với xã hội “dòng chính”
 
a) Tiếng Anh: Khó khăn lớn nhất của người Việt nhập cư là vấn đề ngôn ngữ, họ không thông thạo tiếng Anh, khiến việc tìm việc làm và giao tiếp với người Mỹ khác rất khó khăn. Một số người Việt đã có vốn liếng nhiều ít về tiếng Anh nhưng đại đa số, nhất là thành phần thuyền nhân không biết nói tiếng Anh. Một trường hợp nổi tiếng là giáo sư Nguyễn Văn Tuấn tại Úc, vượt biên đường biển, lúc mới qua Úc -theo như lời ông vì muốn thấy con kangaroo- phải rửa chén, phụ bếp vì không biết tiếng Anh, nhưng sau này tự học tiếng Anh, lấy bằng tiến sĩ và trở thành một giáo sư y khoa khảo cứu về bệnh loãng xương tại Úc.
 
b) Dị biệt văn hóa: Những người nhập cư Việt Nam cũng phải đối mặt với một số cú sốc văn hóa đáng kể từ sự khác biệt giữa văn hóa (theo nghĩa phong tục, nếp sống) Mỹ và Việt Nam. Những người sống ở các bang như Pennsylvania đặc biệt gặp khó khăn trong việc thích nghi vì khí hậu lạnh giá của vùng Đông Bắc nước Mỹ khác biệt rõ rệt với khí hậu nhiệt đới của Việt Nam.
 
c) Một vấn đề khác đối với người Việt Nam là các chứng chỉ hoặc bằng cấp của Việt Nam Cọng Hòa (cũng như Châu Á) chưa được công nhận ở Hoa Kỳ, khiến những người có học không có việc làm. Điều này cùng với trình độ tiếng Anh hạn chế đã dẫn đến tình trạng thất nghiệp của người Việt di cư trong những năm sau 1975.
 
d) Tuy nhiên, phải công nhận là có những cơ chế giúp người tỵ nạn trở lại nghề nghiệp của mình, đặc biệt là ngành y, nha, dược; hầu hết những người có bằng cấp từ Việt Nam sau thời gian học tiếng Anh, tái huấn luyện hoặc huấn luyện thêm về chuyên môn họ đều có cơ hội hành nghề lại ở Mỹ, Canada, Pháp và do đó tạo một tầng lớp chuyên môn với trình độ cao, không những cho ngành y tế của Mỹ nói chung, mà một số lớn phục vụ cho các cộng đồng Việt nam đang thành hình. Các thành viên chuyên môn phục vụ riêng cho cộng đồng thiểu số Việt là một trường hợp ít thấy trong các cộng đồng thiểu số khác như người Mỹ gốc Châu Phi, người gốc Châu Mỹ la tinh.
 
e) Một trong những vấn đề lớn nhất mà người Mỹ gốc Việt vẫn gặp phải ngày nay là tìm kiếm sự cân bằng giữa việc giữ di sản và truyền thống Việt Nam cùng với việc cố gắng thích nghi với văn hóa Mỹ để họ có thể thành công trong môi trường mới.
 
f) Việt Nam là một xã hội truyền thống gia trưởng, theo luân lý “Khổng Mạnh”, điều này không đúng với Mỹ. Phong cách nuôi dạy con giữa cha mẹ Việt Nam và cha mẹ Mỹ có sự khác biệt đáng kể, khiến phụ huynh Việt nam có thể gặp những khó khăn với chính quyền sở tại, như việc đánh đập con cái để dạy dỗ (“thương cho roi cho vọt”), buộc con cái vâng lời cha mẹ tuyệt đối (“cá không ăn muối cá ương”), tham gia vào sinh hoạt hội phụ huynh, dùng thuốc men truyền thống… Người ta thường nói rằng người Mỹ gốc Việt và nhất là con cái của họ cảm thấy như họ sống ở hai thế giới khác nhau cùng một lúc.
 
g) Đó là những gì xảy ra trước đây khá lâu. Hiện nay, cục diện thế giới hoàn toàn khác máy chục năm trước, thế hệ tỵ nạn đã dần dần được thế hệ 1.5 và 2, 3 thay thế. Các dị biệt về ngôn ngữ và văn hóa phai nhòa đi nhiều, có chăng phần lớn còn tồn tại ngay trong nội bộ cộng đồng hay gia đình giữa những người Việt già và những người Mỹ gốc Việt trẻ. Ngay cả cái gọi là “văn hóa Mỹ dòng chính” cũng đang bị thách thức với trào lưu mới về đa nguyên hay đa dạng (diversity), công bằng (equity) và bao gồm (inclusivity) của một xã hội hướng về đa văn hóa.
 
Về vai trò của quê nhà và lịch sử, quá khứ trong văn chương hải ngoại
 
Phạm thị Hoài, một nhà văn và nhà báo sanh tại Hải Dương, miền Bắc VN, và học ở Đức và hiện đang ở Đức nhận xét: “Ở hải ngoại hiện tại với 4 triệu người sử dụng, nó không thực sự truyền bá văn hóa Việt Nam, có chăng chỉ mong làm phần nước sốt rưới lên một món đồng hóa toàn cầu nào đó cho phảng phất mùi vị Việt. Chỉ số ảnh hưởng của nó không đáng kể, song chỉ số hòa bình có lẽ cao.”
    Một học giả, nhà báo và giáo sư đại học nổi tiếng người gốc miền nam Việt Nam, hiện ở Úc, Nguyễn Hưng Quốc, thì viết như sau trong cuốn sách “Sống Và Viết Ở Hải Ngoại” của mình:
    “Phần tôi, mặc dù sống ở ngoại quốc đã gần 40 năm, vẫn chủ yếu viết bằng tiếng Việt. Tiếng Việt là quê hương của tôi. Các thứ tiếng khác chỉ là những cõi lưu đày, ở đó, tôi không có quá khứ, cũng không có họ hàng. Tiếng Việt còn là thân thể của tôi.”
    Nhưng Nguyễn Hưng Quốc cũng viết rằng đối với một số người hải ngoại ông biết:
    “Theo họ, Việt Nam chỉ là nơi để đi du lịch chứ không phải là nơi có thể sống được lâu dài. Người ta đưa ra hai lý do chính: Một là nhớ con cháu tại Úc; hai là, Việt Nam hoàn toàn không an toàn.” (An toàn về địa chính trị, chính trị và môi trường sống).(7)
    Đối với thế hệ 1.5 (lớn lên ở hải ngoại) và 2 ( sinh ra tại Hải ngoại), có thể tiếng Việt không đóng vai trò là “quê hương, là thân thể “ như Nguyễn Hưng Quốc nói ở trên. Tuy nhiên trong những nước Tây phương như Mỹ, Anh, Pháp, Úc càng ngày càng trở nên đa văn hoá, đa sắc tộc; với chính trị bản sắc (identity politics) càng lúc càng nặng nề, trong đó những người cùng một chủng tộc hay sắc tộc, tôn giáo, giới tính phát triển các agenda chính trị riêng dựa trên những bản sắc này, mặc dù ngôn ngữ chuyển tải không phải là tiếng Việt mà tiếng Anh.
    Ocean Vương (Vương Quốc Vinh), Việt kiều (cháu nội của một người lính Mỹ, đến Mỹ lúc mới hai tuổi), văn sĩ và thi sĩ tiếng Anh từng đoạt nhiều giải thưởng quốc tế, giáo sư tại đại học nổi tiếng, người đồng tính, có sách được dịch và ca tụng ở Việt Nam, là một người Việt hải ngoại mang nhiều bản sắc khác nhau cùng một lúc.
    Tuy đến từ Mỹ lúc còn nhỏ, Ocean Vương có những nhận xét sâu sắc về văn hóa lâu đời của Việt Nam so với văn hóa Mỹ lúc trả lời câu hỏi về một bài thơ “Old Glory” của anh chứa đầy những từ ngữ đầy bạo lực trong ngôn ngữ hàng ngày ở Mỹ:
    “Văn hóa Trung Quốc và Việt Nam lâu đời hơn Mỹ rất nhiều. Và tôi nghĩ, theo nghĩa này, nước Mỹ vẫn chưa trưởng thành. Tôi cho rằng cách nó hiển thị và xử lý ngôn ngữ vẫn còn khá sơ khai đối với một quốc gia và một nền văn hóa có nhiều sức mạnh và khả năng như vậy về công nghệ. Nó thực sự thật cổ lỗ trong cách nó hình dung khả năng của ngôn ngữ, và theo nghĩa này, văn hóa Trung Quốc và Việt Nam đang đi trước, cả về dòng thời gian, nhưng cũng về mặt văn hóa, về óc khôn ngoan của họ. Vào những ngày đẹp trời, tôi tin rằng cuối cùng nước Mỹ cũng có thể đạt được sự khôn ngoan đó. Chúng ta thường coi những quốc gia nước ngoài này là “lạc hậu”, nhưng chúng ta chỉ đo lường điều đó ở G.D.P (tổng sản lượng quốc gia thô) và công nghệ. Nhưng nếu nói đến sự khôn ngoan tinh thần về cách xử lý một thứ như ngôn ngữ, thì Việt Nam đang đi trước, và tôi hy vọng một ngày nào đó Mỹ sẽ bắt kịp.”
    Đạo diễn Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng (sinh năm 1962 tại Việt Nam, qua Pháp sau 30 tháng 4, 1975) được biết tới nhiều nhất qua các tác phẩm về chủ đề Việt Nam với phong cách thực hiện đương đại độc đáo. Tác phẩm “Mùi đu đủ xanh” của ông là tác phẩm duy nhất cho đến nay đại diện của điện ảnh Việt Nam lọt vào danh sách đề cử chính thức của Giải Oscar cho Phim ngoại ngữ hay nhất. Năm 2023, tại Liên hoan phim Cannes, ông được trao giải Đạo diễn xuất sắc nhất với phim La Passion de Dodin Bouffant.
    Ông được xem là đạo diễn mang dòng máu Việt có ngôn ngữ điện ảnh xuất sắc nhất và thành công nhất trên ảnh đàn điện ảnh thế giới.(Wikipedia)
    Những thước phim về quê hương dựa trên kiến thức về văn hóa Việt, trộn lẫn thẩm mỹ của một người đã sống ở phương Tây nhiều năm. "Hiện thực của tôi là sự pha trộn phức tạp, qua lăng kính của nhiều nghệ sĩ mà tôi biết, tôi lựa chọn tiếp xúc. Là mùi, là màu, là chất mà tôi nhìn thấy ở Việt Nam". (Vietnam express)
    Do đó, dù biết ít hay nhiều tiếng Việt, chúng ta có thể nói rằng thế hệ diaspora trẻ càng lúc càng muốn tìm hiểu về nguồn gốc chủng tộc và văn hoá và di sản của mình và dùng những vốn liếng này để tạo một chỗ đứng riêng của mình trong môi trường xã hội Tây phương mới không chỉ có một dòng chính mà gồm nhiều dòng chảy song song với nhau.
    Mặc dù công chúng Mỹ nói chung phản đối việc người tị nạn Việt Nam nhập cư vào Hoa Kỳ, nhưng chính phủ đã ban hành một số chính sách giúp đỡ người tị nạn trong những năm sau Chiến tranh Việt Nam. Đạo luật quan trọng đầu tiên được thông qua là Đạo luật về Người tị nạn năm 1980, được tạo ra để đối phó với số lượng ngày càng tăng người tị nạn đến từ Đông Nam Á vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Đạo luật này xác định chính xác ai có thể được phân loại là người tị nạn. Đạo luật cũng quy định việc nhập quốc tịch cho người tị nạn. Sau một năm sống ở Hoa Kỳ, những người tị nạn được phân loại là công dân thường trú. Sau 5 năm ở Mỹ, người tị nạn có thể nộp đơn xin quốc tịch. Người nhập cư Việt Nam đã tận dụng lợi thế đáng kể này, thể hiện qua thực tế là người nhập cư Việt Nam có tỷ lệ nhập quốc tịch cao nhất so với các nhóm nhập cư khác. Số liệu này cho thấy người Việt nhập cư vào thời điểm này chưa có ý định trở về quê hương của họ và Mỹ là quê hương mới của họ (mặc dù cho tới nay nhiều người viết hải ngoại vẫn gọi Mỹ là đất “tạm dung”).
    Về sự thay đổi trong tâm tư của các học giả trẻ về người Việt từ miền Nam Việt Nam, khác với thế hệ trước thiên tả như Giáo sư sử học Ngô Vĩnh Long hay Trương Bửu Lâm, chúng ta có thể nhắc đến chuyện của Alex Thái Đình Võ, hiện là giáo sư nghiên cứu tại Trung tâm Việt Nam và Lưu trữ ở Đại học Texas Tech, chuyên nghiên cứu về Á Châu, đặc biệt là về vấn đề Việt Nam. Qua Mỹ lúc mới 8 tuổi, lúc còn nhỏ ông đã cảm thấy sự thiên lệch của các bài học lịch sử dạy tại các trường Mỹ đối với Miền Nam VN, gợi ý cho cậu bé muốn tìm hiểu sự thật về sự thất bại của miền nam. Lúc học ở Đại Học Berkeley (California), các giáo sư phản chiến dạy sinh viên “tương đối một chiều” và ảnh hưởng lớn đến cái nhìn về Miền Nam của sinh viên. Từ đó, Alex-Thái Võ chọn ngành nghiên cứu về sử học, nhất là về Việt Nam. (8)
    Ngày nay, người Mỹ gốc Việt nói chung thành công hơn và được chấp nhận nhiều hơn so với những năm 1970 và 1980. Người Việt đã tạo ra những cộng đồng văn hóa để hỗ trợ lẫn nhau ở các trung tâm đô thị, đặc biệt là ở California. Nhóm này cũng đã vươn lên dẫn đầu về kinh tế và chính trị trong những năm gần đây, thu hút sự chú ý trên mức độ quốc gia. Người Mỹ gốc Việt đã giữ chức vụ công ở các vị trí như thị trưởng, dân biểu, ủy viên hội đồng thành phố và tổng chưởng lý.
    Theo Viện Chính sách Di cư, hiện có hơn 2 triệu cư dân Hoa Kỳ sinh ra ở Việt Nam hoặc báo cáo có nguồn gốc hoặc tổ tiên Việt Nam. Cộng đồng người Việt hải ngoại cũng đã có những đóng góp đáng kể cho xã hội Hoa Kỳ, đặc biệt là trong thế giới văn học với sự nổi lên của các nhà văn người Việt hải ngoại như Viet Thanh Nguyen (giải Pulitzer văn chương với cuốn tiểu thuyết The Sympathizer) và Ocean Vuong.
    Theo thời gian, cộng đồng người Việt hải ngoại đã đạt được trình độ học vấn cao và thành công về kinh tế. Theo dữ liệu từ Trung tâm nghiên cứu Pew, 22% người Mỹ gốc Việt đã đạt được bằng cử nhân và 10% đã đạt được bằng sau đại học. Thu nhập hộ gia đình trung bình hàng năm của người Mỹ gốc Việt là $85.800.
    Vài biến chuyển mới đây về sự hiện diện của người Việt hải ngoại thuộc nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau:
    Ngày 21/04, nhà văn Dương Thu Hương đã được trao Giải Toàn cầu 2023 (Cino-Del-Duca 2023), trong khuôn khổ Lễ hội Sách Paris (Festival du Livre de Paris). Giải Cino-Del-Duca 2023 trị giá 200.000 euro đã được trao cho tác giả "Đỉnh cao chói lọi" để "tôn vinh một nhà văn lớn vì nhân cách và sự nghiệp xuất sắc, truyền đi thông điệp về chủ nghĩa nhân văn hiện đại". Giải thưởng Cino-Del-Duca 2023 là một giải thưởng quan trọng, chỉ sau giải Nobel Văn học, theo một số đánh giá của các tạp chí văn chương châu Âu. (BBC)
    Trường Sức khỏe Cộng đồng T.H. Chan thuộc Đại học Harvard hôm 26/4 vừa thành lập Trung tâm Chánh niệm Thích Nhất Hạnh với một hội nghị chuyên đề có sự tham gia của các thiền sư và học giả trên khắp thế giới, trong đó có các đại đệ tử của cố Thiền sư Thích Nhất Hạnh.
    Hôm 6/4, Royal Australia Mint phát hành tiền xu mệnh giá 2 đôla Australia bằng bạc, nhân kỷ niệm 50 năm kể từ ngày Australia đưa quân tham chiến trong cuộc Chiến tranh Việt Nam vào năm 1973, hỗ trợ đồng minh Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Việt Nam phản đối việc hai cơ quan thuộc Kho bạc và Bưu chính Australia phát hành tiền xu có in cờ Việt Nam Cộng hòa. (VOA).
    Nhà Việt Nam học Mỹ Keith Taylor, trong cuốn A History of the Vietnamese xem người Việt hải ngoại như là một dòng nước ngược làm tươi mát dòng lịch sử cho đến nay vẫn hướng về Trung Hoa : "Trong trải nghiệm của Việt Nam,[ từ thế kỷ thứ 15 cho đến ngay bây giờ] một nét vẫn bền vững là tương quan thuận thảo (compliant) về căn bản đối với Trung Quốc, được thi hành bởi những chính phủ rập khuôn theo những gì tồn tại bên Trung Quốc. Một khía cạnh của vấn đề này là chính phủ có khuynh hướng giáo huấn người dân và liên hệ yếu ớt đối với những ước muốn của dân chúng"...
    "Tuy vậy có những dòng nước ngược (countercurrents) về tư tưởng chảy về chỗ khác không phải Trung Quốc và không phải về quá khứ, những dòng này được cộng đồng Việt hải ngoại làm tươi mát. Mặc dù một chế độ độc đoán khuất phục và kìm hãm, và bị tổn thương do một đồng minh vô tín năm 1975, những dòng nước ngược này còn sống trong những giấc mơ về Việt Nam tương lai."

(Còn 1 kỳ)


Bác sĩ Hồ Văn Hiền


(6) https://www.ocregister.com/2015/05/01/how-they-became-us-orange-county-changed-forever-in-the-40-years-since-the-fall-of-saigon/


(7) https://vietbao.com/p301418a312775/song-va-viet-o-hai-ngoai-hoi-ky-cua-nguyen-hung-quoc


(8) https://www.voatiengviet.com/a/7071676.html)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thuế quan — thứ từng vắng bóng trên mặt báo suốt nhiều thập niên — nay trở lại trung tâm chính sách kinh tế Hoa Kỳ, trong lúc Tối Cao Pháp Viện đang xét tính hợp hiến của các mức thuế toàn cầu do Tổng thống Donald Trump ban hành. Bài viết dưới đây, theo phân tích của Kent Jones, giáo sư kinh tế danh dự Đại học Babson, đăng trên The Conversation ngày 11 tháng 12 năm 2025, nhằm giải thích cặn kẽ thuế quan là gì, ai thực sự gánh chịu, và vì sao vấn đề này đang tác động trực tiếp đến túi tiền và tương lai kinh tế nước Mỹ. Thuế quan, nói gọn, là thuế đánh lên hàng hóa nhập cảng. Khi một công ty Hoa Kỳ nhập hàng từ nước ngoài, Cơ quan Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ sẽ gửi hóa đơn thuế; doanh nghiệp phải nộp đủ thì hàng mới được thông quan. Trên giấy tờ, người trả thuế là nhà nhập cảng. Nhưng trên thực tế, phần lớn chi phí ấy được chuyển thẳng sang người tiêu dùng qua giá bán cao hơn — từ thực phẩm, xe cộ cho đến quà tặng cuối năm.
Vào những ngày cuối tháng Tám của năm 2025, tôi cùng hai đồng nghiệp đã quyết định từ bỏ chức vụ tại Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC). Chúng tôi ra đi vì không thể tiếp tục im lặng khi chứng kiến tính liêm chính khoa học ngày một xói mòn, còn cơ sở hạ tầng y tế công cộng của quốc gia cứ dần rệu rã dưới sự lãnh đạo của Robert F. Kennedy Jr., Bộ trưởng Bộ Y tế và Nhân sinh (HHS). Khi đó, chúng tôi đã khẩn thiết kêu gọi Quốc Hội, các tổ chức chuyên ngành và các bên liên quan trong lĩnh vực y tế công cộng hãy can thiệp trước khi xảy ra những thiệt hại không thể cứu vãn. Tôi rời đi với niềm tin mọi thứ rồi sẽ được chấn chỉnh.
Khi nhìn bản đồ thế giới và duyệt xét lịch sử hình thành, chúng ta nhận thấy có rất nhiều điểm tương đồng giữa Canada và Úc Đại Lợi.
Người Việt miền Nam từng trải qua một bài học cay đắng: sau 1975, những lời nói về “thống nhất” và “hàn gắn” không bao giờ đi cùng sự nhìn nhận. Không một lời chính thức nào nhắc đến các trại cải tạo, những cuộc tước đoạt, hay những đời sống bị đảo lộn dưới tay những người nhân danh chiến thắng. Không có sự thật, hòa giải chỉ là chiếc khẩu hiệu rỗng. Câu chuyện nước Mỹ hôm nay, khi chính quyền muốn làm mờ các chứng tích về chế độ nô lệ, cho thấy một điều quen thuộc: không quốc gia nào trưởng thành bằng cách giấu đi phần tối. Sự thật không tự biến mất chỉ vì người ta muốn quên.
Hai mươi năm trước, Thống đốc Jeb Bush ký đạo luật “stand your ground” (đứng vững tại chỗ), được giới ủng hộ xem là một biện pháp chống tội phạm dựa trên “lý lẽ thường tình”. Lời hứa khi ấy: bảo vệ người dân tuân thủ pháp luật khi họ dùng vũ lực để tự vệ. Sau vụ George Zimmerman được tha trong cái chết của Trayvon Martin, đồng bảo trợ dự luật, dân biểu Dennis Baxley, vẫn bảo rằng “trao quyền” cho người dân sẽ giúp chặn bạo lực.
“Di sản, còn có thể mang hình thức phi vật thể của lối nghĩ, lối sống, lối hành động, mà con người miền Nam khi xưa đã được trau dồi, hun đúc qua tinh thần của thể chế, của một nền dân chủ hiến định. Chính con người, chính cộng đồng xã hội mới là trung tâm và cũng là cội nguồn lẫn mục đích của mọi bản hiến pháp.” – Hải Sa, “Ngót 60 năm từ một khế ước nhân quyền dang dở,” trang 56 Cùng với tin tạp chí Luật Khoa vừa được đề cử giải thưởng Tự Do Báo Chí năm 2025 của Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, ban chủ trương trong một thư tới độc giả vào cuối tháng 10 đồng thời thông báo việc phát hành ấn bản đặc biệt với chủ đề “70 Năm Việt Nam Cộng Hòa – Chân Dung & Di Sản” gồm 86 trang, với 14 bài vẽ lại hành trình từ ra đời tới bị bức tử của nền dân chủ duy nhất của Việt Nam và di sản của thể chế yểu mệnh này để lại. Bài này nhằm điểm qua nội dung của ấn bản đặc biệt này, và sẽ chú trọng vào một bài đã gợi nơi người viết một suy tư sâu sắc.
Một nhóm sử gia, thủ thư và tình nguyện viên đang gấp rút chạy đua với thời gian – và với chính quyền Trump – để giữ lại những mảnh ký ức của nước Mỹ.Từ hình ảnh người nô lệ bị đánh đập, các trại giam người Mỹ gốc Nhật trong Thế Chiến II, đến những bảng chỉ dẫn về biến đổi khí hậu ở công viên quốc gia, tất cả đều có thể sớm biến mất khỏi tầm mắt công chúng. Trong vài tháng gần đây, hơn một ngàn sáu trăm người – giáo sư, sinh viên, nhà khoa học, thủ thư – đã âm thầm chụp lại từng góc trưng bày, từng bảng giải thích, để lập ra một kho lưu trữ riêng tư. Họ gọi đó là “bản ghi của công dân” – một bộ sưu tập độc lập nhằm bảo tồn những gì đang tồn tại, trước khi bị xoá bỏ bởi lệnh mới của chính quyền.
Hai trăm mười một năm trước, mùa hè năm 1814, quân Anh kéo vào Washington. Trước khi phóng hỏa Bạch Ốc, họ ngồi xuống dùng bữa tại bàn tiệc đã dọn sẵn cho Tổng thống James Madison. Khi bữa ăn kết thúc, lính Anh đốt màn, đốt giường, và tòa nhà bốc cháy suốt đêm. Sáng hôm sau, cơn mưa lớn chỉ còn rửa trôi phần tro tàn của nơi từng là biểu tượng cho nền cộng hòa non trẻ. Tuần này, phần Cánh Đông của Bạch Ốc bị phá sập. Không phải bởi ngoại bang, mà bởi chính quyền tại vị. Và lần này, không ai được báo trước. Người Mỹ chỉ biết chuyện qua những bức ảnh máy xúc cày nát nền nhà, cùng lời xác nhận ngắn ngủi từ các viên chức trong chính phủ.
Hai trăm năm rưỡi sau ngày dựng cờ độc lập, nước Mỹ vẫn chưa thoát khỏi chiếc bóng của bạo lực. Mỗi khi một viên đạn nổ, người ta lại nói: “Đây không phải là nước Mỹ.” Nhưng chính câu nói ấy lại là cách người Mỹ tránh nhìn thẳng vào chính mình. Bài viết của giáo sư Maurizio Valsania (Đại học Torino), đăng trên The Conversation ngày 12 tháng 9, 2025, nhắc lại lịch sử mà nhiều người muốn quên: từ nhựa đường và lông gà đến súng ngắn buổi bình minh — một mạch dài nối liền hai thế kỷ, nơi tự do và bạo lực chảy cùng dòng máu.
Một cuộc thăm dò dư luận của AP-NORC thực hiện vào tháng 9 & 10 cho thấy hầu hết dân Mỹ coi việc chính phủ đóng cửa hiện tại là một vấn đề nghiêm trọng và đổ lỗi cho cả hai Đảng Cộng Hòa, Đảng Dân Chủ và cả Tổng Thống Trump với những tỷ lệ gần như ngang nhau. Cuộc thăm dò cũng cho thấy người Mỹ lo lắng về kinh tế, lạm phát và bảo đảm việc làm. Họ đang giảm những chi tiêu không thiết yếu như quần áo và nhiên liệu. Đa số cho rằng nền kinh tế yếu kém. Chi phí thực phẩm, nhà ở và chăm sóc sức khỏe được coi là những nguồn chính gây khó khăn tài chính.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.