Hôm nay,  

Mảnh tàu nổi trôi

21/10/202308:26:00(Xem: 3542)
Truyện nước ngoài

storm



Cơn gió bão từ tối hôm trước đã dịu đi trong giây lát; một tia nắng vàng nhạt xuyên qua mây khiến những mái nhà đá phiến xanh sáng bóng. Roger mở cửa sổ; anh nghe mùi tảo quen thuộc giạt vào bãi biển khi thủy triều dâng cao, và anh nhắm mắt lại hưởng một cách thích thú. Cây cối vẫn mạnh mẽ chống chọi lại bão tố; nhiều chiếc lá nâu vương vãi trên mặt đất, những đám cây sồi rụng lá sớm, bao nhiêu cơn lốc không làm những thân cây dày đặc dọc các con đường rộng chùng lòng, chúng đã uốn cong theo hướng gió ngay từ khi chúng còn bé. Một vài bụi hồng mọc lại đã rụng hoa từ đêm trước, chỉ còn trơ trụi vài cành cây mảnh mai.
    Roger nhìn lên bầu trời, suy nghĩ.
    Bà giúp việc cũng đến nhìn trời và nói:
    – Thưa ông, buổi lễ hội của trời đất đêm qua vẫn chưa tan sao ạ?
    – Tôi nghĩ bão vẫn tiếp tục, bà ạ. – Anh trả lời.
    Những đám mây lớn ào tới một cách nặng nề như những đội kỵ binh; màu sắc đồng nhất của chúng, với đường viền đều đặn, cho ta biết chúng đến từ rất xa, từ chân trời, nhanh chóng, mạnh mẽ và uy nghi. Tia sáng vàng nhạt lướt giữa những đám mây đến từ phần bên kia của chân trời; thiên đỉnh hoàn toàn thuộc về những đoàn quân ghê gớm này. Mưa rơi liên tục và đều đặn, vì gió không còn thổi trên mặt trái đất nữa, và những người không quen với sự yên tĩnh giả tạo này sẽ tin rằng mối nguy hiểm đã qua. Roger lắng nghe, và tiếng sóng vỗ lớn cách xa hàng dặm trên bãi biển vang đến tai anh như tiếng vang của một trận chiến.
    Những đám mây xám biến mất do cơn bão cuốn đi, một làn sương mù đen kịt lan ra trên bầu trời, rồi những hạt mưa nhỏ quất vào mặt làm rát da, và thêm vào những tiếng rền vang của mặt đất, từng đợt sóng khủng khiếp đập vào bờ như sấm sét.
    Roger đóng cửa sổ lại, đi xuống cầu thang bằng đá granit, tiếng giày vang lên.
    – Thưa ông, ông định ra ngoài đấy ư? Có lẽ không nên đâu ạ.
    – Khung cảnh đẹp quá, tôi phải đi xem đây. – Anh trả lời bằng giọng bình tĩnh.
    Bà lão đang càu nhàu và giơ tay lên trời, anh đã ra ngoài đường, kiên quyết đón cơn cuồng phong dữ dội. Cài cúc chiếc áo khoác, hai tay thọc vào túi, để gió không thể tấn công được, anh nhanh chóng bước đi, qua đám hàng rào bằng đất bao quanh các thửa đất chắn gió mạnh từ biển thổi vào.
    Mặt trời vẫn chiếu sáng, một thứ ánh sáng nhợt nhạt gần như trắng khiến những vật thể được chiếu sáng có vẻ yếu đuối một cách kỳ lạ. Sương mù bay qua bầu trời ngăn cản tia sáng chiếu vào trái đất và chỉ có đại dương tiếp nhận ánh sáng. Sóng cuồng trên biển vỡ thành từng đợt đối nhau, tạo thành những dải mênh mông lao điên cuồng tấn công vào tảng đá đen, bao phủ mỏm đá rồi lại rơi xuống thành đám bọt trắng đục lăn ra xa như một tấm dầu; rồi làn sóng lặp lại, ngày càng mạnh hơn, to lớn, đáng sợ, đánh vào những viên đá cuội, sụp đổ hẳn bởi những cú va chạm khủng khiếp.
    Bị thôi thúc bởi mong muốn được chiêm ngưỡng cảnh tượng đáng kinh ngạc này kỹ hơn, Roger cố gắng bắt đầu chạy xuống con đường dốc. Khi anh đi xuống, cường độ gió giảm dần, và khi anh đến bên dưới thung lũng, anh thấy mình ở một vùng gần như yên tĩnh. Anh bước chậm lại, lấy lại hơi thở, rũ những hạt nước trên áo và nhìn xung quanh. Anh nhìn thấy phía trước một hình dáng mờ mờ, đầu quấn khăn; anh không cần phải nhìn hai lần, trong trái tim hồi hộp của anh đã cho anh biết tên của người bộ hành rất dạn dĩ này.
    Nếu như vào một thời điểm khác, có lẽ anh đã quay gót đi, nói chuyện với nhau có ích gì khi chúng ta không thể hiểu nhau. Nhưng có những ngày mà sự dũng cảm và táo bạo chiếm lấy hồn ta và đưa ta đi xa hơn những điều lý trí mong muốn, nếu ta tham khảo ý kiến của suy xét bình tĩnh và cẩn thận; Roger bước nhanh và đến bên cô ấy.
    – Cô dám ra ngoài với cơn gió khủng khiếp này ư? – Anh hỏi cô, lúc đã đến bên cạnh cô gái.
Cô giật mình, vì đột ngột chứ không phải vì sợ hãi và đáp:
    – Cảnh vật bây giờ thật là tuyệt!
    – Tôi cũng nghĩ như vậy.
    Họ lại bước đi bên nhau trong không khí đã lắng dịu ở góc thung lũng này, ngọn đồi cao đã ngăn chặn cơn bão.
    – Cô định đi xa không? – Anh lại hỏi.
    – Tôi muốn đến bờ biển. Tôi cố tình đi ra ngoài để xem mặt trời kỳ lạ này ảnh hưởng thế nào trên vùng biển đang nổi cơn thịnh nộ. Có một sự tương phản làm tôi ngao ngán nhưng vẫn có điều gì quyến rũ tôi. Phải chăng mặt trời chỉ nên chiếu sáng những cảnh bình yên, hay ít ra là niềm vui thôi?
    – Những người bất hạnh vẫn có quyền được an ủi một chút chứ. – Roger trả lời.
    – Vâng! – Cô cay đắng trả lời, – Ánh nắng như vậy không an ủi được… nó chỉ soi sáng nỗi đau, và nỗi đau lại thích bóng tối hơn.
    Roger không trả lời. Họ không còn nhìn thấy đại dương nữa và một cảm giác bình yên dường như đang trở lại trong họ. Sau vài phút, anh ta lại hỏi người bạn đồng hành, với giọng chấp nhận một cách buồn bã.
    – Cô muốn rời khỏi đất nước này, cô không thay đổi ý định sao?
    – Làm sao tôi biết được! – Cô trả lời một cách cay đắng. – Tôi có quyền biết mình muốn gì không? Tôi còn phải chạy trốn khỏi chính mình nữa cơ mà, nhưng muốn có được điều đó, bất cứ một cuộc hành trình nào, dù xa xôi đến đâu, cũng không thể cho tôi toại nguyện. Tôi đã đi qua rất nhiều quốc gia, tâm trạng của tôi vẫn sẽ không thay đổi, thế thôi!
    – Cô thù ghét đất nước này hơn bất kỳ nơi nào khác phải không? – Anh hỏi với vẻ dịu dàng e ngại trái ngược với vẻ dạn dĩ của đôi mắt và nét cương nghị từ đôi môi.
    Cô lắc đầu không trả lời. Một cảm giác ngọt ngào thoáng qua làm nét căng thẳng vì cay đắng trên gương mặt cô dịu bớt đi.
    – Không! Tôi yêu anh ấy hoặc tôi nghĩ rằng tôi yêu anh ấy… Tôi có thể chết vì vui sướng, nhưng tôi không thể chết, không thể! – Sự cay đắng lại hiện lên trên nét mặt thanh tú của cô, và cô khoát tay, giận dữ một cách kiêu kỳ. – Tôi phải đi đây! Đúng rồi, tôi phải đi. Tôi đã chờ đợi quá lâu. Những lời này được thốt ra với vẻ đầy trách móc và lo sợ.
    – Cô vẫn ở lại đây, có thể cô sẽ hạnh phúc. – Roger tiếp tục, – cô sẽ có được tình yêu… Cô sẽ không vui và hạnh phúc hơn ở bất cứ nơi nào khác… Nhưng biết đâu ở nơi nào đó, có thể có người đang mong đợi cô.
    – Chờ tôi! Lạy Chúa ơi! Người nào sẽ đợi tôi chứ? Ở đâu? Tôi không còn gì cả, quê hương cũng không, gia đình cũng không. Tôi đã phá vỡ mọi thứ xung quanh mình. Tôi đã đổi vàng nguyên chất của mình để nhận lấy đồng tẩm độc, và kể từ đó không còn ai, không một ai, anh nghe không, Roger? Không một ai yêu tôi hoặc chờ đợi tôi.
    Con đường bỗng rẽ ngoặt gấp, rồi một cơn gió cực mạnh ào đến khiến cả hai phải ngậm miệng lại. Họ đã đến gần bờ biển; không chạm tay vào nhau, có vẻ như không hề quen biết nhau, họ trèo lên bức tường đá cuội mà mỗi lần thủy triều dâng cao lại bồi thêm vào, làm thành bờ đập bảo vệ ngôi làng khi sóng biển tràn vào, rồi họ dừng lại, kinh hoàng nhìn cảnh vật. Cách chỗ họ ngồi chừng mười sải chân, sóng biển đang tấn công mặt đất, kẻ thù từ xưa nay, và họ thẫn thờ như thế trước sức mạnh không chế ngự được của thiên nhiên.
    Qua bộ quần áo màu nâu sẫm nàng quấn quanh mình, ta có thể hình dung thân hình mảnh khảnh đang lo âu, đầu hơi nghiêng về phía trước dưới tấm khăn che sát mặt với mái tóc đen huyền, cô ấy như là bức tượng, đang cố gắng tập trung. Roger chỉ nhìn thấy hình dáng như ảnh tượng Hy Lạp thanh tú của cô, và cảm nhận đôi mắt xanh thật đẹp đang nhìn chằm chằm vào những con sóng như đang muốn biết chúng sẽ cuốn dữ dội thế nào đây. Lúc nãy khi kể lể vài dòng, cô vừa tiết lộ cho anh biết vết thương trong lòng cô, mà từ bấy đến nay vẫn được che giấu một cách thật chu đáo. Cô đã yêu, chắc là một người nào ở rất xa, bởi vì qua hai năm cô sống nơi đây, không ai biết gì về cô, ngoại trừ tính tình cô rất bác ái, không cần giúp đỡ về những nhu cầu, rất giản dị, không xa hoa cầu kỳ, rất dè dặt nên không ai dám hỏi han điều gì về cuộc sống riêng tư.
    Tại sao Roger lại say mê sinh vật bí ẩn này? Tại sao? trong khi anh có thể lựa chọn trong các cô gái trẻ ở miền này cũng như vùng lân cận, nơi anh đã trải qua mười tám tháng gần như hoàn toàn hưu trí, và thật hiếm khi anh gặp cô gái này, phải chăng anh không còn tìm thấy niềm vui ở bất kỳ ai khác? Phải chăng vì anh đã tìm thấy ở cô những điều thiếu sót ở những người kia: trí thông minh để cùng chia sẻ sở thích nghệ thuật của anh, đó là thành quả học tập của anh, chia sẻ những hiểu biết về thế giới, những điều căn bản mang sự hòa hợp giữa hai người. Và thêm nữa vẻ đẹp, vẻ đẹp tuyệt đối của những đường nét, được hoàn chỉnh ở đỉnh cao nhất cho tình yêu nồng nàn.
    Anh yêu cô, nhưng không thể thổ lộ; giữa cô và anh, cô luôn đặt một rào cản không thể vượt qua bằng một sự trang nghiêm lạnh giá; tại sao hôm nay cô lại vén ra một góc màn cuộc đời bí ẩn của mình? Và thật kỳ lạ, thay vì cảm thấy bị xúc phạm khi nghe lời thú nhận nửa vời này, anh lại cảm thấy một niềm vui xen lẫn lo lắng và bối rối. Đó là bởi vì anh sống xa thế giới. Anh cũng chỉ tìm thấy một thứ chất liệu con người không đáng kể khi phải đổi lấy kho báu của mình, và bây giờ anh không còn quan tâm đến thiên hạ và môi trường nữa. Nhưng đối với cô, có thật là cô không còn yêu thích gì nữa hay sao? Trước đây, khi đầu tiên trò chuyện, cô dường như dửng dưng với mọi việc; sự cay đắng tột bậc, thái độ khinh thường lạnh giá, là căn bản triết lý sống của cô; nhưng dạo gần đây cô có vẻ dịu dàng hơn; đôi khi, giọng nói đầy cảm xúc của cô đã ngưng hẳn khi vừa mới bắt đầu kể một câu chuyện nào đó.
    Có phải cô cảm thấy tâm hồn khô héo của mình đang sống lại?
    Vừa miên man suy nghĩ, anh nhìn cô và cố đoán xem suy nghĩ chua cay nào khiến cô dán chặt mắt vào đại dương đang cuồng nộ. Anh nhìn thấy một giọt nước mắt, không phải nước mưa hoặc nước biển, đang rơi từ hàng mi đen dài, lăn xuống đôi má nhợt nhạt, và hạt mưa nhẹ vừa phủ lên màu hồng phấn. Nhìn những giọt nước mắt tiếp tục rơi từ từ, sau đó nhanh hơn, anh không dám hé môi, không dám lại gần, e sợ cô sẽ nhớ rằng anh đang hiện diện nơi đây, và sẽ chạy đi, để che giấu trái tim yếu đuối từ lâu nay vẫn một mực khép kín. Ước gì anh có thể đổi tất cả những gì anh sở hữu để lau những giọt nước mắt thầm lặng này bằng đôi môi mình, những giọt nước mắt làm bằng chứng rõ ràng về những nỗi đau không ngớt trong cô đơn, khi màn đêm buông xuống? Ai là người có thể làm tổn thương một tâm hồn kiêu hãnh, đáng được quý trọng và yêu thương này?
    Trên vùng đồng cỏ, đàn cừu ngạc nhiên nhìn những bông bọt biển mà các thủy thủ gọi là bướm trắng của biển rơi xuống những bông hoa cây bấc. Cô gái quay đầu nhìn về phía Roger; gió đã lau khô nước mắt của cô, và nỗi tuyệt vọng ban nãy chỉ còn lại nét âu sầu. Cô đứng dậy và nói điều gì mà anh không nghe được, chung quanh quá ồn; anh tiến lại gần hơn. Họ đang đứng sát bên nhau; nhưng giữa hai người vẫn còn một khoảng trống, và quần áo của họ cũng không chạm vào nhau.
    Cô chỉ cho anh xem một vật thể màu sẫm bị nước mang theo con sóng, lao đến rồi lại bị cuốn đi mà không thể nào tấp vào bờ được; nhưng rồi một ngọn sóng mạnh đã mang vật ấy đến chỗ họ đang đứng. Trong làn sóng xanh trong suốt, hình thù ấy thành một màu đen đậm; và đó chỉ là một mảnh ván bị tách ra từ một chiếc thuyền nào đó; không thấy dấu hiệu nào để nhận biết, cũng không có gì đáng quan tâm.
    – Đó là một mảnh xác tàu. – Roger nói.
    Họ phải đến gần sát tai nhau thì mới có thể nghe được, và hơi thở của anh phả vào má nàng.
    – Những mảnh tàu như thế này có thường trôi đến đây không? – Cô hỏi bằng giọng chậm rãi, như thể kiệt sức vì nỗi khổ đau khôn cùng.
    – Đôi khi, sau những cơn bão lớn. Dù bị pháp luật cấm nhưng người nông dân luôn nghĩ rằng quyền được giữ xác tàu đắm là một quyền thiêng liêng.
    – Quyền giữ xác tàu đắm? – Cô hỏi lại, mắt nhìn về phía Roger.
    Anh vừa nhìn thấy trong đôi mắt sâu thẳm của cô nỗi đau không thể nguôi ngoai; và nỗi đau dịu dàng ấy không có niềm vui và không có hy vọng, giống như tia sáng màu vàng trong làn sóng trong suốt đang tuôn ra trên người anh.
    Cảm thấy bối rối, anh nói tiếp:
    – Đúng vậy, theo quan niệm của họ, xác tàu thuộc về người đã nhặt được; đôi khi họ thật khó khăn khi phải giằng co với biển, thật vất vả mới kéo ra khỏi làn sóng hung dữ, rồi sau đó lại được xét rằng mảnh tàu đắm ấy không thuộc quyền sở hữu của mình… Thế nên luật của xứ này là: xác tàu sẽ thuộc về người đã mang được mảnh tàu về.
    Cô lặp lại, không suy nghĩ:
    – Xác tàu đắm thuộc về người đã cứu nó.
    Mảnh gỗ của xác tàu trôi đến rồi lại bị cuốn đi trước mắt họ, có khi bị ném lên cát, có khi bị sóng cuốn, đưa lên đưa xuống hàng trăm lần trong một phút.
    Người phụ nữ đứng dậy và bước đi.
    – Ta hãy đi xa hơn phía đằng kia, – Cô nói – tôi thấy miếng gỗ này tội nghiệp quá, nó không thể đi xa cũng như không thể tìm thấy một nơi để tấp vào.
    – Nó sẽ tìm được người sấy khô và cho vào lò sưởi, Roger trả lời.
    – Vậy sao? – Cô quay nhìn anh ấy, gương mặt bỗng đỏ hồng lên. – Ít ra thì nó cũng sẽ có ích! Nó sẽ mang lửa và hơi ấm từ trong mình nó vào trong căn lều còn hơn là lang thang mãi, rồi bị bão giông vùi dập, anh thấy không?
    Cô ngồi trên một tảng đá và nhìn phía chân trời vẫn còn tràn ngập mây xám. Mặt trời đã biến mất, và nỗi u sầu do cơn bão mang đến lại trở nên sâu đậm hơn, với những giọt mưa dữ dội quất mạnh vào mặt họ; có lẽ cô cũng không còn không cảm nhận được điều đó.
    Nơi họ ngồi là một cái vịnh nhỏ, ít sóng hơn và ít ồn ào hơn. Họ có thể nói chuyện và nghe thấy nhau; nhưng anh vẫn ngồi rất gần bên cô. Cô nói, bằng một giọng nói đẫm nước mắt, chân thật và cảm động:
    – Tôi ước gì có được một ngôi nhà nhỏ có vườn, chung quanh là cảnh vật bao la, tràn ngập ánh sáng, tia nắng rọi khắp nơi… một chút gì thật thoải mái, những điều này tôi đã sở hữu và không nợ ai cả, đó là tất cả những gì còn lại của tuổi thơ hạnh phúc của tôi. Tôi mong muốn có một sinh vật để yêu thương, không phải là loài chó, bởi vì chúng sẽ ra đi trước mình, và ta lại thương khóc chúng, mà một sinh vật để yêu, không khinh miệt, hoặc thương hại tôi, một sinh vật sẽ yêu thương tôi như một tạo vật tương đồng với họ… và đối với người ấy, cũng như mảnh tàu trôi nổi ở đằng kia, tôi sẽ sưởi họ bằng ngọn lửa con tim nồng nàn và toàn bộ hơi ấm của mình, cho dù tôi sẽ suy mòn kiệt sức rất nhanh. Nhưng trước đó tôi phải hoàn thành được điều gì đó, phải tận hưởng được niềm vui khi đã hy sinh như thế. Từ trước đến nay tôi chỉ nếm điều ngược lại, luôn bị trách cứ rằng: "Tôi đâu có đòi hỏi việc này đâu!"
    Anh nhìn cô, sững sờ, không đủ can đảm để hiểu những điều cô vừa thổ lộ, không dám trả lời. Cô có thực sự ao ước, sau bao nhiêu đau khổ đã gánh chịu mà anh không hề biết đến, nhưng anh đã đoán rất rõ, và người phụ nữ này, một người quả cảm đã mang bao nhiêu gánh nặng mà cuộc đời nghiệt ngã ban tặng cho cô, cô có thực sự muốn giao thân phận mình vào tay một gã chính trực, rất đơn giản trong tình yêu và nhãn thức, với cơ nghiệp không có gì gọi là bao la vĩ đại không?
    – Nhưng không đâu. – Cô trả lời – Tôi là xác tàu trôi trên sóng, đập vào bờ biển khắp nơi và tôi sẽ tan thành cát bụi bám vào tất cả những tảng đá của cuộc đời, mà không bao giờ thắp sáng hay sưởi ấm một mái ấm gia đình nào.
    Cô đứng lên và đi trên cát đã dần khô khi nước biển rút đi. Một đợt sóng khổng lồ đang ập tới, Roger bước lùi theo bản năng và nghĩ rằng người bạn đồng hành cũng đang bước lùi.
    Đột nhiên, khi thủy triều vừa dâng lên và rút đi, anh nghe thấy tiếng kêu la và nhìn thấy một dáng hình màu nâu đang bị cuốn đi. Trông như một xác tàu bị đắm, vật thể đang trôi nổi trong làn sóng trong suốt lạnh lẽo và đen ngòm, trơ trọi như một cơ thể vô tri.
    Mím môi thật chặt, anh quyết tâm lấy lại miếng mồi từ đại dương tham lam, và lao nhanh xuống nước, đầu anh hứng chịu những ngọn sóng dữ chém vào, anh ngụp xuống, trồi lên, nhanh chóng giành lấy thân thể bất động, ôm thật chặt và bơi vào bờ. Anh chạy đến phía sau tảng đá, rồi đặt món quà mà anh ta vừa tranh giành được với sóng biển trên một lớp cát mịn.
    Cô mở mắt và nhìn anh, thật dịu dàng, thắm thiết, say đắm:
    – Anh đã cứu tôi. – Cô nói với anh bằng một giọng yếu ớt, không thể cử động vì toàn thân tê cóng. – Tôi là xác tàu đắm. Anh biết rằng xác tàu trở thành sở hữu của người cứu nó không?
    – Tôi biết. – Anh trả lời, và nhìn cô như một người mẹ nhìn đứa con đau yếu. “Vì thế nàng sẽ thuộc về ta… đến thiên thu…”

 

– Henry Gréville

Thailan dịch

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.