Hôm nay,  

Tọa Độ Của Sinh Thực Khí

15/12/202300:00:00(Xem: 4424)
Ann Phong, Blue Layers. acrylic, 20x16, 2009.1
Tranh Ann Phong

Nguyễn chết lúc 3 giờ sáng. Tôi được tin trên Facebook. Nguyễn bằng tuổi Ba tôi. Ba tôi 85 tuổi, ông đang rất yếu. Nguyễn 85 tuổi, Nguyễn làm thơ. Ba tôi không làm thơ, hoặc có làm thơ nhưng chưa từng là thi sĩ.

***

Cha con tôi ít khi nói chuyện với nhau, từ hồi tôi bắt đầu lớn. Chắc do khắc khẩu. Trừ khi có chuyện gì cần thiết phải trao đổi ra, thì ít có lúc “tâm tình” với nhau, như bố và con, hay như hai người đàn ông.

Dịp này, tôi về chăm sóc ông và kẹt lại Vũng Tàu, có lẽ đây là thời gian chúng tôi thật sự ở với nhau trong suốt trên 50 năm qua. Ông giờ đã rất già, tôi bắt đầu già. Chúng tôi chỉ có thể nói chuyện với nhau thẳng thắn và chân tình khi không có ai. Đúng vậy, chỉ khi không có ai ngoài hai chúng tôi.

Buổi tối, chúng tôi ngồi ngoài sân, bên gốc cây nhãn. Tôi rót bia cho ông, tôi uống Whisky. Ông nói hơi khó khăn vì phát âm không được dễ dàng, nhưng ý tưởng rất sáng suốt. Tôi gợi chuyện cho ông nói, không như nói với đứa con trai đầu lòng, mà như một ông bạn già nói với đứa bạn trẻ hơn. Về đủ thứ chuyện, từ chính trị, chiến tranh, gia tộc, quê nhà, đánh bạc, tín ngưỡng, rượu chè, bằng hữu, vượt biên, kháng chiến, nghề dạy học, đàn bà, bắn nhau, ném lựu đạn, cộng sản-quốc gia, thời thơ ấu, Huế, Thượng đế, đức tin, Công giáo-Phật giáo, giấc mộng văn chương thời mới lớn, tập võ, trại tị nạn, nghề thông dịch viên, chống trả với hai thằng cướp xe gắn máy.... và Mẹ tôi, và cái chết.

Tôi đã dùng một số câu chuyện do ông kể cho việc viết của mình. Tôi nghĩ, may mà có thời gian này, nếu không thì sự cách biệt của hai cha con tôi có thể là mãi mãi.

Ba tôi về Việt Nam, như cách thay đổi môi trường sống cho đỡ nhàm. Mùa Đông ở Bắc Mỹ quá lạnh đối với ông, mà Sài Gòn thì quá ồn, nóng, và bụi, nên chúng tôi quyết định ông nên ra Vũng Tàu. Tôi về theo để chăm sóc và cho ông bớt buồn. Nỗi buồn của tuổi già là thứ chất lỏng, sánh đặc, mà vô hình, từ ông chảy xuôi xuống tôi. Đọng lại. Tôi nghĩ lâu ngày nó sẽ kết tinh lại thành thể rắn, trong tôi, rồi lại tan ra, sánh đặc, chảy xuôi xuống con tôi.

Chúng tôi thuê được căn nhà ba phòng ngủ, trong một khu khá yên tĩnh, cách Bãi Sau chừng 15 phút đi bộ. Hằng ngày, tôi đẩy xe lăn cho ông ra ngắm biển. Không hiểu khi ngồi trước biển thì ông nghĩ gì, nhớ gì. Ông từng đóng quân, hành quân khắp vùng Vũng Tàu - Bà Rịa trong thời chiến, từng giúp quân đội của đồng minh Úc sang Việt Nam tham chiến huấn luyện cho binh sĩ Địa Phương Quân của miền Nam. Thỉnh thoảng, khi những hồi ức thức giấc, ông chỉ tay mông lung ra ngoài khơi, bảo rằng nơi này tao đã từng kéo vào bờ hai cái xác chết vô danh, sình chương, trôi giạt ngoài khơi, kéo vào làm phước; còn dưới rặng cây kia đại đội của tao bị Việt Cộng phục kích, bên nó chết ba, bên tao chết sáu. Cuộc chiến Bắc Nam đã chấm dứt gần nửa thế kỷ nhưng nó vẫn thường xuyên mai phục và tấn công ông trong những đêm cô quạnh ở Seattle lạnh giá, hay những ngày dài trong trại tị nạn ở Thái Lan chờ tới lượt định cư, hay những chiều trên bàn nhậu tưng bừng của ông Việt kiều về du lịch ở Cà Mau. Ba năm trong quân ngũ, sáu tháng thuộc binh chủng Biệt Động Quân, chứa nhiều ký ức hơn tất cả thời gian còn lại trong đời. Bắn M-16, ném lựu đạn, và đếm xác chết của cả hai bên.

“Có bao giờ Ba bắn trúng Việt Cộng không?”, tôi hỏi. “Ba không biết. Chắc là không trúng thằng nào. Chưa bao giờ tận mắt tao thấy mình giết ai, nhưng tao thấy họng súng khạc lửa khi nó bắn mình… Còn sống tới giờ là phúc đức ông bà để lại!” Sau thế hệ của ông nội thì gia đình tôi không có ai chết vì chiến tranh. Ở tù thì có, anh em tôi ở tù lai rai, hết đứa này tới đứa kia.

Đêm tôi ngủ cùng phòng với Ba để trông chừng và giúp nếu ông cần. Có khi ngủ quên, có khi không kiểm soát được việc vệ sinh cá nhân, ông đái luôn trên giường chứ không kịp vào toilet. Có khi ông kịp thức giấc, lồm cồm ngồi dậy, chống gậy lần mò vào toilet một mình vì không muốn đánh thức tôi, tuy nhiên việc này rất nguy hiểm vì ông thường mất thăng bằng, rồi ngã. Trước đây ông nằm nệm mút, loại này hút nước, thấm nước tiểu thì rất bẩn, sau này tôi tìm mua loại nệm hơi bằng cao-su không thấm nước, nhưng với loại nào thì cũng ngập ngụa nước tiểu, ướt đẫm cả áo quần, ra trải giường, và chăn. Vậy là phải đưa ông vào tắm, thay đồ mới, có đêm hai ba lần, cả hai cha con không ngủ ngáy gì được. Tôi mang cho ông loại tã dùng cho người già, nhưng vẫn rất bất tiện, chỉ hai lần đái là tã ướt mèm chẹp nhẹp, phải thay tã mới. Giải pháp sau cùng là một điều may mắn. Tình cờ, tôi phát hiện ra trên mạng, rồi đặt mua, một loại dụng cụ giúp nam giới đi tiểu mà không phải ngồi dậy, cứ tè thoải mái ở tư thế nào cũng được, dù nằm, ngồi hoặc đứng, mà không vấy bẩn. Nó là một cái bình cao-su, thông hai đầu, miệng tròn, bằng 2/3 chiều dài của chai bia. Một đầu có hình dạng như cái cổ chai, hơi cong cong, để úp khít vào sinh thực khí. Đầu kia thắt lại, nối với một ống nhựa trong như loại dây truyền nước biển, dài khoảng một mét, nối với một cái túi có dung tích chứa được một lít nước. Tất cả dụng cụ này được ràng dây vải ngang bụng để giữ cho khỏi rơi, và giữ cho vị trí của con cu cố định, nó phải luôn nằm trong cái cổ bình, để dòng nước tiểu không trào ra ngoài. Muốn chắc ăn thì trước khi đái người ta phải với tay xuống, vịn giữ cái bình cho nó úp khít vào con cu.

Ban đầu, Ba tôi cảm thấy khó chịu, bất tiện, vì ngoài việc nó lủng củng, lấn cấn, do phải luôn mang theo bên người, thì nó còn gây cho ông một thứ phức cảm, đúng hơn là một thứ mặc cảm, rằng ông đang trở nên bất lực với chính thân thể của mình. Khi mang bình vào thì rất khó mặc quần, vì cộm, ống quần đùi không đủ rộng để chứa nó. “Đái cũng không xong thì còn làm ăn được cái mẹ gì nữa. Tao buồn ghê.”, ông than. Khi già, con người trở lại làm hài nhi, hay tệ hơn vậy nữa, với một thân thể bất khả khiển dụng. Trò chuyện với tôi, có lúc ông xưng Ba, có lúc ông xưng tao, tùy hứng, và gọi tên tôi thay vì gọi là “con”.


Vốn là người chỉnh tề, thậm chí còn hơn cả chỉnh tề. Thời còn trai trẻ ông luôn ăn vận đẹp nhất, trẻ trung nhất, bất cứ khi nào có thể. Ngay cả sau 1975, để giữ cho cả nhà khỏi chết đói, Mẹ tôi phải mang bán dần những chiếc áo dài đẹp của bà, và áo vest, cà-vạt, sơ-mi, quần tây của ông, thì ông vẫn giữ lại một bộ khá tươm tất để mặc khi có dịp. Cái thời cả nước đều lẹp xẹp dép nhựa hay dép lốp, áo bỏ ngoài quần, khăn rằn quấn quanh cổ theo kiểu cán bộ lãnh đạo xuề xòa với nhân dân, thì ở vùng cư xá nơi chúng tôi sống, người ta thường thấy ông và ông bạn, là đạo diễn Kỳ, lửng thửng đi uống cà phê với phong cách rất phong lưu. Hai ông vẫn áo sơ-mi trắng bỏ vào quần, thắt lưng da, giày đen tuy sờn cũ nhưng cũng là giày da, thứ dấu vết của tàn dư tư bản. Bác Kỳ dáng người cao, đi thẳng lưng, đường hoàng, khiến những người chưa biết ông phải ngoái đầu nhìn theo. Kẻ ngưỡng mộ, kẻ bực dọc. Quán cà phê của một thiếu phụ khá đẹp dựng bên vĩa hè, bàn gỗ ghế đẩu, tựa vào vách tường có kẽ dòng chữ “Nhân Dân Cảnh Giác Với Bọn Đầu Sỏ Phản Động!” Bọn thanh niên thường gọi là quán “Đầu Sỏ”. Tôi không biết cô chủ quán Đầu Sỏ có yêu ai trong hai người không, nhưng cô chăm chút cho hai ly cà phê đen và mấy điếu thuốc lá lẻ của họ một cách trân trọng hơn hẳn bọn khách đàn ông loàng xoàng, những kẻ xu thời đừng hòng được cô để mắt đến. Cô vẫn giữ được nét kiêu kỳ, đài các. Tôi không nhớ là quán bị dẹp lúc nào. Thời ấy, người ta hiện ra, yêu nhau, rồi biến mất. Biến mất lặng lẽ. Vài năm sau Ba tôi vượt biên. Gia đình bác Kỳ cũng đi định cư theo diện ODP. Sau khi ở Washington D.C vài năm thì bác qua đời.  Thỉnh thoảng họ gọi điện thoại viễn liên thăm nhau, nhưng hai người bạn không có dịp gặp lại lần nào.

Ở truồng, ban đầu Ba tôi mắc cỡ, nhưng rồi cũng quen.  Từ khi có cái bình tiểu, chúng tôi đỡ khổ rất nhiều. Ông mang nó cả ngày, chỉ trừ khi ngồi ăn hay khi tôi đẩy xe lăn cho ra ngoài đi chơi. Ông nằm trong phòng, tôi ngồi viết và đọc ở ngoài sân, dưới bóng cây nhãn. Cứ khoảng một giờ, tôi vào kiểm tra. Điều đầu tiên là xem ông còn thở không. Tôi ý thức rất rõ rằng ông có thể “đi” bất cứ lúc nào. Tôi không muốn trong giây phút cuối cùng, giả biệt trần gian, ông phải đi một mình. Tôi mong ông đi êm thắm, nhẹ nhàng. Tôi muốn nắm tay ông trong lúc ấy. Những gì cần nói với nhau thì chúng tôi đã nói hết rồi. Chẳng còn gì để gọi là trăn trối. Tôi từng đôi lần chứng kiến cảnh người ta hấp hối. Có lúc cơn hấp hối kéo dài cả ngày. Điều khó chịu nhất là sự níu kéo bất lực của thân nhân hơn là sự ra đi của người đang chết. Tôi tưởng tượng mình sẽ phải làm gì trong giây phút đó. Có lẽ sẽ cầm tay ông và chúc ông đi vui, và bình an. Nếu có kiếp sau thì không chừng chúng tôi sẽ tái ngộ. Tôi sẽ không đọc kinh. Không hẳn là do tôi không tin vào ơn Cứu Chuộc, mà tôi tin rằng Chúa sẽ nhận cha tôi cho dù có đọc kinh và gọi Ngài hay không. Tôi chỉ không muốn mình xao lãng hay chia sẻ với ai trong giây phút sau cùng, kể cả với Chúa. Nhìn lồng ngực ông còn phập phồng, tôi yên tâm, ừ vậy là chưa tới lúc, rồi tôi giở cái mền lên kiểm tra xem dây nhợ có an toàn và hiệu quả không, dòng nước tiểu có chảy xuống bình không, nếu có giọt nào rơi ra thì lấy khăn giấy lau cho sạch. Tôi thường hài lòng. Để cho ông bớt cảm giác khó chịu khi mang bình vào người thì tôi thường nói đùa để làm cho ông quên việc khó chịu ấy đi.

“Đố Ba người ta gọi cái này là những tên gì?” Tôi nhẹ nhàng nâng cái vật thể đã góp phần tạo ra sự hiện hữu của mình trong cuộc đời lên. Giờ đây tuy mềm oặt, rũ rượi, bèo nhèo nhưng nó vẫn có kích thước to hơn 90% con cu của những người Việt có vóc người trung bình mà tôi có dịp thấy. Đám lông quăn queo, xơ xác, lốm đốm chuyển từ màu đen sang nâu và bạc, phần lớn là bạc. Làn da mỏng trên cái chóp tròn nổi lên vệt xám, sậm màu như màu của một cái bớt. Mẩu da bao quy đầu thun lại nhùng nhằng. Ngày xưa, hẳn ông từng ngắm và có thể đã mân mê con cu của tôi, cái vật thể sẽ làm nên sự truyền giống cho gia tộc; giờ thì tôi mân mê con cu của ông, lòng dấy lên một thứ cảm giác và ý nghĩ kỳ lạ, nó không phải chỉ là của ông, mà còn là của tôi. Tôi chẳng những đồng sở hữu nó với Ba tôi, mà còn sở hữu, còn chịu trách nhiệm với cả những lịch sử của nó, niềm kiêu hãnh từ nó, và cả những rắc rối về đạo đức và tập quán do nó.

“Con cu… con cặc… dương vật… sinh thực khí…” Ông trả lời.
“Còn gì nữa?”
“Con giống…”
“Còn gì nữa?”
“Đại bác!”
“Đại bác hả?”
“Ừ, đại pháo. Loại chuyên dụng để công thành.”
“Rồi, thì đại bác. Còn gì nữa?”
“Chịu. Ba không nhớ nổi.”

Ông Cố tôi chỉ có một người con là ông Nội tôi. Ông Nội có hai người con, một là Ba tôi, một là cô tôi. Giờ, Ba tôi có đến chín đứa con và chắc sẽ có hàng chục đứa cháu. Tất cả khởi đầu là từ cái khúc gân thịt dài hơn một lóng tay này mà ra.

“Con gọi nó là hung khí nhé?”
“Cái gì?”
“Hung khí!”
“Hung khí là gì? Sao lại là hung khí?”
“Hung khí là khí cụ được sử dụng để gây án. Ba từng mang cái hung khí này đi gây án khắp nơi!”

Thấm ý, ông bật cười ha hả. “Mày chơi đểu tao hả, thằng con?” Không mấy khi cha con tôi có những lúc cười đùa như vầy.

“Ngày xưa Ba còn gọi con cu của con là củ thìu biu, nhớ không?”
“Nhớ.”
“Củ thìu biu là củ gì?”
“Là củ cặc.”
“Vì sao gọi nó là thìu biu?”

Ông trầm ngâm một lúc, “Chắc cũng giống như ông Hoàng Cầm gọi lá diêu bông, có điều nó là củ chứ không phải là lá. Mà củ thì vừa thơ mộng vừa rắn chắc hơn là lá!”

***
Nguyễn qua đời. Nguyễn sinh cùng năm với Ba tôi, năm con trâu. Nguyễn nằm liệt giường một thời gian dài. Khi xác chưa lạnh thì lũ kiến bò quanh thành những vệt dài trên vách đe dọa. Người thân lấy bốn tập thơ của Nguyễn kê dưới bốn chân giường. Lũ kiến bu quanh nhưng không có con nào bò lên các tập thơ. Nguyễn không nhắm mắt dù ai vuốt cũng không nhắm. Sau cùng, người con gái mà ông thương nhất xé một trang trong cuốn thơ đầu tay của ông phủ lên mặt. Dưới những dòng thơ là đôi mắt thao láo, vô hồn.

***
THẬN NHIÊN
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.