Hôm nay,  

Nụ cười đầu tiên

21/12/202314:35:00(Xem: 2029)
Truyện dịch

xmas pic
Trên vùng đồng bằng im lặng, những người chăn cừu bước đi một cách nghiêm trang, mang những lễ vật khiêm tốn của mình đến dâng cho Chúa Hài Đồng.
    Đêm tối dày đặc và con đường trắng xóa xuyên qua những bụi cây và đồng cỏ phủ đầy tuyết.
    Cơn gió tháng 12 gay gắt này tàn nhẫn biết bao, làm đôi bàn chân trần của những lữ khách quê mùa xanh tím vì lạnh; quất mạnh vào khuôn mặt những người dân chất phác, lương thiện, điềm tĩnh của họ! Nhưng rồi họ vẫn tiến về phía trước, bước đi mà không gây ra bất kỳ tiếng động nào trên nền đá vào mùa đông. 
    Phía sau những người chăn cừu, một kẻ dị dạng đáng thương đang lết đi một cách khó khăn, lảo đảo. Hắn chợt thốt lên một tiếng kêu đau đớn.  
    – Ai đến vậy? Người bước đi sau cùng của đoàn quay lại và hỏi. 
    – Mậc kệ nó. Một người khác trả lời, chắc hẳn là Thannar. Đi nhanh lên nào!
   – Đúng vậy, ta hãy nhanh lên nào. Người đi đầu nhắc nhở mọi người, vì ta còn nguyên một chặng đường dài. 
    Anh ta là một người đàn ông cao lớn, khỏe mạnh và vạm vỡ, đang ôm hai chú cừu con trong tay, chỉ vào một điểm sáng cố định ở phía chân trời.
    Nhưng rồi, họ cũng đã đến đích, hơi mệt mỏi nhưng run rẩy vì một cảm xúc đặc biệt khi nhìn thấy hang lừa nơi Chúa Giêsu đang nằm.
     – Hãy đến gần dây, các bạn của tôi, Đức Mẹ nói  khi thấy họ đứng trước ngưỡng cửa.
    Thật là một cảnh tượng bất ngờ đập vào mắt họ khiến họ đứng sững như thế! 
Một cảnh tượng bình dị biết bao! Một người phụ nữ trẻ, rất đơn sơ đang ôm một Hài Nhi xinh đẹp tuyệt vời trên chân mình.  Một người đàn ông lớn tuổi và đáng kính đang cúi về phía họ, nhìn ngắm họ một cách tràn ngập yêu thương. 
    Một con lừa và một con bò quỳ trước máng cỏ đã hoàn thành bức tranh gia đình này.
    Khi Đức Maria đưa tay ra dấu, các mục đồng tiến tới và dâng quà. Một người mang đến những quả trứng, thật dễ thương và trắng trẻo như những viên kẹo trứng chim phủ rơm vàng óng trong chiếc giỏ. Người khác thì mang vài chú cừu con rất bé; chúng bắt đầu kêu be be, buồn bã đi tìm mẹ phía sau máng cỏ. Người thứ ba thì một cặp gà mái tơ xinh đẹp, với cái mào đỏ giống như bông hoa mới nở của cây lựu. Người thứ tư, khéo léo hơn những người bạn đồng hành của mình, đã khắc hạt ô liu thành những hạt cườm thật đẹp, và xâu vào một sợi gai dầu chắc chắn. 
    Anh ta rất tự hào về công việc của mình: 
    – Đây, thưa Bà, ông nói, hãy đeo chiếc vòng này vào cổ đứa con xinh đẹp của Bà.
     Đức Trinh Nữ Maria mỉm cười, cúi đầu, cảm động và thú vị trước những biểu hiện tôn thờ mà những con người khiêm nhường này dành cho Con yêu dấu của Mẹ. 
    – Còn con, thưa Mẹ Nhân Lành, một chú chăn cừu nhỏ rụt rè đứng cách xa, con nghèo lắm. Người chủ mà con phục vụ khắc nghiệt đến nỗi không cho con một mảnh len hay mấy quả sung khô. Nhưng đêm qua con đã đẽo được một cây sậy và nếu ngài muốn, con sẽ hát cho ngài nghe một giai điệu hay. 
    Và thế là anh chàng tội nghiệp trở nên mạnh dạn hơn, do dự thổi lên một vài nốt nhạc đơn sơ; rồi vững tin hơn và rồi sau đó một bản nhạc đồng quê được ngân lên làm khán giả thật say mê vì sự giản dị ngây thơ của bài nhạc.
    Thánh Giuse đến gần người ca sĩ khi anh ta hát xong và chỉ vào Đấng Hai Nhi:
    – Bạn ơi, ngài nói với anh ta, Chúa ban phước lành cho bạn. Luôn tôn vinh lòng nhân lành của Ngài.
    Đột nhiên, gần cánh cửa đổ nát vang lên tiếng nói rì rầm và tiếng bước chân vội vã, rồi giá rét mùa đông ùa theo vào. 
    – Ô hay! Tên này đến đây làm gì vậy? Hãy đi ra ngoài và đếm sao đi! Để tên ấy nhìn thấy Chúa Hài Đồng thật là không phải tí nào. Họ vừa nói vừa muốn xua đuổi người mới đến. Nhưng thay vì sợ hãi trước những lời mỉa mai cay đắng và những cú xô đẩy mạnh bạo của họ, anh lại cố lướt qua và đến phủ phục trước chiếc nôi thiêng liêng.
    – Ôi! À!  Nhóm người chăn cừu kinh ngạc thốt lên, đang cùng bước đến gần tò mò, chờ đợi một sự việc khác thường sẽ xảy đến. Thannar là một sinh vật xấu xí, dị dạng như vậy, mà dám đi theo những người lữ hành, đến Máng Cỏ!
    Được ngôi sao bí ẩn dẫn đường, anh đã kiên quyết thực hiện cuộc hành trình gian khổ này, vô cùng mệt mỏi vì đôi chân nhỏ bé yếu ớt và thân hình hốc hác. Anh quyết vượt qua ngưỡng cửa để bước đến chuồng súc vật, chế ngự nỗi sợ hãi kinh khiếp khi nhìn thấy bọn người ác độc kia, và đến quỳ dưới chân Chúa Hài Đồng, yếu đuối nhưng hạnh phúc. 
    Kẻ khốn nạn bị bỏ rơi này là ai vậy? Không ai biết gì về anh ta; không ai biết gì về chuyện của những người đau khổ. 
    Người ta gọi anh là Thannar, là Jaell hoặc Elijah cũng đều tốt cả. 
    Một ngày nọ, vài người tốt bụng tìm thấy anh ta nằm bất động bên vệ đường và mang về chăm sóc anh trong mùa lạnh năm ấy. Nhưng, vào mùa xuân, con chim hoang đủ lông đủ cánh đã bay đi, theo một chủng tộc lang thang... 
    Yếu ớt, đau khổ, đứa bé vô tội chạy khắp miền tìm tổ ấm, mót những trái bắp ngô còn sót lại, cố gắng giúp người già và trẻ nhỏ, những con người giản dị, nhỏ bé như anh. Có lúc bị xua đuổi, anh không hề phàn nàn, phớt lờ những lời nhục mạ và không hề có ý trả thù; nhưng rồi những giọt nước mắt  lặng lẽ vội vàng chảy xuống đôi má hóp kia. Sau đó, khi cơn tuyệt vọng qua đi, tên ngốc lại bắt đầu cười, tiếng cười vô hồn, không chút âm vang khiến những người phụ nữ có lòng nhân ái vô cùng thương xót. Tội nghiệp Thannar! 
    Tuy nhiên, Đức Maria dịu hiền, Thánh Giuse nhân lành, cảm động trước sự tôn thờ thầm lặng của chàng trai trẻ bị bỏ rơi, đã dịu dàng nói với anh để tạo cho anh niềm tin: 
    – Hãy đứng dậy đi, chú bé tội nghiệp, và hãy nhìn Chúa Giêsu.
    Thánh Giuse nói với anh như một người cha nói với con, vừa đỡ Thannar đứng dậy.
    Thật kinh ngạc làm sao trước cảnh tượng kỳ lạ lần đầu tiên nhìn thấy, anh bạn ngây thơ đưa tay lên trán. 
    Nhưng rồi ngày sau đó, anh thành tâm chắp hai tay lại, quỳ xuống và kêu lên:
    – Ôi Lạy Chúa Giêsu! Con yêu Ngài! Con xin trao Ngài trái tim của con!
    Ôi! lời nói kỳ diệu đã làm cho đôi môi của Đấng Hài Nhi nở một nụ cười thần thánh!
    Bỗng nhiên, hàng ngàn ngọn đèn chiếu sáng máng cỏ bé mọn; những thiên thần với đôi cánh rộng bay lượn trên bầu trời xanh thẫm, rồi một giọng hát vang lên:
    – Gloria in excelsis Deo! Vinh danh Thiên Chúa trên Trời!
    Hãy dâng tấm lòng của bạn cho Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu sẽ ban cho bạn sự bình an và niềm vui trên trái đất!

 

L. D. de Savignac

 Thái Lan dịch

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.